Lá dong

Lá dong
Phân loại khoa học edit
Giới: Plantae
nhánh: Tracheophyta
nhánh: Angiospermae
nhánh: Monocots
nhánh: Commelinids
Bộ: Zingiberales
Họ: Marantaceae
Chi: Stachyphrynium
Loài:
S. placentarium
Danh pháp hai phần
Stachyphrynium placentarium
(Lour.) Clausager & Borchsenius, 2003[1]
Các đồng nghĩa
Danh sách
  • Maranta placentaria (Lour.) A.Dietr., 1831
  • Phrynium placentarium (Lour.) Merr., 1919
  • Phyllodes placentaria Lour., 1790[2]
  • Maranta parviflora (Roxb.) A.Dietr., 1831
  • Phrynium densiflorum Blume, 1827
  • Phrynium densiflorum Moritzi, 1862 nom. illeg.
  • Phrynium glabrum Ridl., 1917
  • Phrynium parviflorum Roxb., 1820
  • Phrynium sinicum Miq., 1861
  • Phrynium tetranthum K.Schum., 1902
  • Phyllodes densiflora (Blume) Kuntze, 1891

Cây lá dong, dong gói bánh, dong rừng hay dong lá (danh pháp hai phần: Stachyphrynium placentarium) là một loài thực vật trong họ Dong (Marantaceae).

Loài này được João de Loureiro mô tả khoa học đầu tiên năm 1790 dưới danh pháp Phyllodes placentaria.[2] Năm 2003 Karen Clausager & Finn Borchsenius chuyển nó sang chi Stachyphrynium.[1][3]

Đặc điểm

[sửa | sửa mã nguồn]

Cây thân thảo cao 1–2 m. Các lá gốc 1 (hoặc 2); bao lá 3–50 cm. Lá mọc trên thân cây 1; bao lá 3–5 cm; cuống lá 7,5–60 cm, thể gối 2–7 cm; phiến lá hình từ trứng tới elip, 25-55 × (5,5-) 8–20 cm, dạng dai như da nhưng mỏng, không lông, gốc lá thuôn tròn với tâm nhọn, đỉnh lá nhọn.

Cụm hoa không cuống, bao gồm 4 hay 5 hoặc nhiều hơn các bông con, hình cầu, đường kính 3–8 cm; các lá bắc nhiều, thuôn dài, 2-2,5 cm, đỉnh với mũi nhọn thon dần và cứng dạng gai. Hoa 2 trên mỗi lá bắc, màu trắng hay trắng ngả sang vàng. Các lá đài thẳng, khoảng 5 mm. Ống tràng hoa khoảng 8 mm; thùy lá hình elip, kích thước khoảng 5 x 2 mm. Các nhụy lép bên ngoài hình trứng ngược, khoảng 5 mm. Bầu nhụy nhẵn nhụi hoặc có lông măng ở đỉnh. Quả thuôn dài, khoảng 1,2 cm; vỏ quả mỏng. Hạt 1, hình dạng elip, khoảng 1 cm; áo hạt màu đỏ. Ra hoa trong khoảng từ tháng 5 tới tháng 8, nhưng có thể sớm hơn từ tháng 2, kết quả từ tháng 8 tới tháng 11.

Phân bố

[sửa | sửa mã nguồn]

Sinh sống trong các khu vực ẩm ướt có bóng râm che phủ như trong rừng, thường trong các thung lũng dọc theo suối; cao độ từ 0 tới 1.500 m. Phân bố tại Ấn Độ, Bhutan, Indonesia, Myanmar, Philippines, Thái Lan, Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Hải Nam, đông nam Tây Tạng, nam Vân Nam) và Việt Nam.

Sử dụng

[sửa | sửa mã nguồn]
Lá dong dùng gói bánh

Lá dong được dùng chủ yếu để gói bánh chưng, bánh giày

bánh tét, bánh nếp, bánh tẻ. Bánh gói lá dong sau khi luộc có mùi thơm đặc biệt và dễ chịu.

Lá dong còn được dùng để cất giấm bằng cách ngâm lá với rượu hay dung dịch 30% đường.

Theo kinh nghiệm dân gian, lá dong được dùng làm thuốc giải độc, chữa say rượu, rắn cắn.[4]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Karen Clausager & Finn Borchsenius, 2003. The Marantaceae of Sabah, Northern Borneo. Kew Bulletin 58(3): 647-678, xem trang 672.
  2. ^ a b João de Loureiro, 1790. Lá deaong Phyllodes placentaria. Flora Cochinchinensis 1: 13-14.
  3. ^ The Plant List (2010). Stachyphrynium placentarium. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2013.
  4. ^ Tra cứu dược liệu Lá dong

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Lịch sử nước biển khởi nguyên - Genshin Impact
Lịch sử nước biển khởi nguyên - Genshin Impact
Thế giới ngày xưa khi chưa có Thần - hay còn gọi là “Thế giới cũ” - được thống trị bởi bảy vị đại vương đáng sợ
Hướng dẫn build Kaeya - Genshin Impact
Hướng dẫn build Kaeya - Genshin Impact
Mặc dù Kaeya sở hữu base ATK khá thấp so với mặt bằng chung (223 ở lv 90 - kém khá xa Keqing 323 ở lv 90 hay Qiqi 287 ờ lv 90) nhưng skill 1 của Kaeya có % chặt to
Nên tìm hiểu những khía cạnh nào của người ấy trước khi tiến tới hôn nhân?
Nên tìm hiểu những khía cạnh nào của người ấy trước khi tiến tới hôn nhân?
Sự hiểu biết của mỗi người là khác nhau, theo như góc nhìn của tôi, hôn nhân có rất nhiều kiểu, thế nhưng một cuộc hôn nhân làm cho người trong cuộc cảm thấy thoải mái, nhất định cần phải có tình yêu.
Kusanali không phải Thảo Thần của Sumeru
Kusanali không phải Thảo Thần của Sumeru
Thảo Thần là một kẻ đi bô bô đạo lý và sống chui trong rừng vì anh ta nghèo