Kể từ năm 1054, tức sau cuộc ly giáo Đông–Tây, các Kitô hữu thân Roma và các Kitô hữu thân Byzantium chính thức cắt đứt liên hệ với nhau. Về sau, đã có nhiều nỗ lực hợp nhất các Kitô hữu Chính thống giáo Đông phương với Giáo hội Công giáo, điển hình là vào năm 1452, khi Tổng giáo chủ Isidor, Tổng giáo chủ Kiev (tại nhiệm 1437–1441, sau bị phế truất) tán thành cuộc liên hiệp Firenze năm 1439 và ước định bằng văn bản việc hiệp nhất Giáo hội Chính thống giáo Ruthenia với Giáo hội Công giáo.
Sau khi Thượng phụ Ieremias II rời nước Nga vào năm 1589,[1] 4 trong số 9 giám mục Chính thống giáo Đông phương tại xứ người Ruthenia của Liên bang Ba Lan và Lietuva đã triệu tập một công nghị tại thành phố Brest và ký kết một bản tuyên bố về việc sẵn sàng hiệp thông với Giáo tông ở Roma.[1] Tất cả 33 điều ước về hiệp nhất đều được Giáo tông Sixtus V châu phê. Sau thành công ban đầu, cuộc Liên hiệp dần mất đi sự ủng hộ từ các giáo dân trong nhiều thập kỷ tiếp theo, chủ yếu do việc áp đặt chính sách liên hiệp lên các giáo xứ theo Chính thống giáoĐông phương và gián tiếp gây ra nhiều cuộc khởi nghĩa lớn.
Các giám mục không công nhận cuộc liên hiệp bao gồm
Gudziak, B. A. (2001). Crisis and Reform: The Kievan Metropolitanate, the Patriarchate of Constantinople, and the Genesis of the Union of Brest (Harvard Series In Ukrainian Studies). Cambridge: Harvard Ukrainian Research Institute.[2][3]
^Longworth, Philip (2000). "Reviewed work: Crisis and Reform: The Kyivan Metropolitanate, the Patriarch of Constantinople, and the Genesis of the Union of Brest, Borys A. Gudziak". The Slavonic and East European Review. 78 (1): 166–168. JSTOR4213031.
^Baran, Alexander (2000). "Reviewed work: Crisis and Reform: The Kyivan Metropolitanate, the Patriarchate of Constantinople, and the Genesis of the Union of Brest, Borys A. Gudziak". Slavic Review. 59 (2): 449–450. doi:10.2307/2697078. JSTOR2697078.