Long Vương chiến (竜王戦) | |
---|---|
Loại danh hiệu | Danh hiệu chuyên nghiệp |
Tiền thân | Giải vô địch Shogi toàn Nhật Bản (1948-1949)
Cửu Đẳng chiến (1950-1955, 1956-1961) Thập Đẳng chiến (1962-1987) |
Thông tin | |
Khoảng thời gian | Sơ loại: Tháng 12 - tháng 5 năm sau
Khiêu chiến giả Xác định: Tháng 6 - tháng 9 Loạt trận tranh danh hiệu: Tháng 10 - tháng 12 |
Lần đầu tổ chức | Năm 1988 (kì 1) |
Thời gian ván đấu | Vòng giáng tổ: mỗi bên 3 tiếng (đồng hồ cờ vua)
Sơ loại - Khiêu chiến giả Xác định: mỗi bên 5 tiếng Tranh danh hiệu: mỗi bên 8 tiếng (diễn ra trong 2 ngày) |
Loạt tranh ngôi | 7 ván thắng 4 (Bo7) |
Tiền thưởng | 44 triệu Yên |
Chủ trì | Liên đoàn Shogi Nhật Bản |
Tài trợ | Nhật báo Yomiuri |
Trang web | https://www.shogi.or.jp/match/ryuuou/index.html |
Thành tích | |
Đương kim | Fujii Sota (Kì 34) |
Vĩnh thế | Watanabe Akira (11 kì) Habu Yoshiharu (7 kì) |
Giành nhiều danh hiệu nhất | Watanabe Akira (11 kì) |
Chuỗi danh hiệu dài nhất | Watanabe Akira (9 kì liên tiếp, từ kì 17-25) |
Long Vương (竜王 Ryūō , đây cũng là tên gọi của quân Xe phong cấp) là một trong tám danh hiệu lớn của giới shogi chuyên nghiệp Nhật Bản, được thành lập từ năm 1988 sau khi tiến lên từ Thập Đẳng (十段, Judan - một danh hiệu lớn của shogi chuyên nghiệp Nhật Bản từ năm 1962 tới 1987, xin đừng nhầm lẫn với danh hiệu Thập Đẳng của cờ vây). Giải đấu tranh danh hiệu này được gọi là Long Vương chiến (竜王戦 Ryūōsen) và được tài trợ bởi Nhật báo Yomiuri, tổ chức bởi Liên đoàn Shogi Nhật Bản.
Trong tất thảy tám danh hiệu lớn của shogi chuyên nghiệp Nhật Bản, Long Vương và Danh Nhân (Meijin) là hai danh hiệu lớn hơn cả nhờ truyền thống lâu đời - sức mạnh của truyền thông khi nói về hai danh hiệu/giải đấu này. Điều này được chứng minh thông qua quy tắc gọi tên một kì thủ khi họ sở hữu danh hiệu, rằng khi họ sở hữu danh hiệu Long Vương/Danh Nhân hay cả hai thì hai danh hiệu đó sẽ được ưu tiên hơn tất cả các danh hiệu khác, không quan tâm kì thủ đó sở hữu bao nhiêu danh hiệu hiện tại hay có mức xếp hạng/danh dự gì.[1]
Danh hiệu Long Vương là sự thay thế cho danh hiệu Thập Đẳng (十段, Judan, đi kèm với đó là Thập Đẳng chiến - 十段戦[2][3] được tổ chức từ năm 1962 tới 1987 và được tài trợ bởi Nhật báo Yomiuri). Khi đó, Liên đoàn Shogi Nhật Bản đã đưa ra sự cấp thiết về việc đưa ra một giải đấu - danh hiệu có thể có sự thành công toàn diện như Danh Nhân. Khi đó, Nakahara Makoto (Vĩnh thế Danh Nhân đời thứ Mười sáu) đã để Liên đoàn quyết định, còn hai huyền thoại là Oyama Yasuharu (Vĩnh thế Danh Nhân đời thứ Mười lăm - sau đó là Chủ tịch Liên đoàn Shogi Nhật Bản) và Masuda Kozo lại mâu thuẫn quan điểm với nhau. Sau nhiều cuộc thảo luận, danh hiệu mới được tạo ra đã được định hướng về việc sẽ có quỹ tiền thưởng nhiều nhất trong các giải đấu danh hiệu, và danh hiệu Long Vương mới này sẽ có mức độ ưu tiên cao nhất giống như Danh Nhân.
Trước khi có tên gọi là Long Vương - Long Vương chiến, đã có nhiều đề cử khác cho tên gọi của danh hiệu mới này ví dụ như Kì Thần chiến (棋神戦), Tối Cao Phong chiến (最高峰戦), Cự Nhân chiến (巨人戦), Cự Tinh chiến (巨星戦), Kì Bảo chiến (棋宝戦) hay Đạt Nhân chiến (達人戦). Tuy nhiên, những vấn đề của những tên gọi này đã được chỉ ra. Cụ thể, tên Kì Thần chiến bị lo ngại sẽ gây ảnh hưởng không tốt trên khía cạnh tôn giáo, hay cụm từ Cự Nhân (nghĩa là người khổng lồ - tiếng Anh là Giants) có thể gây nhầm lẫn với đội Yomiuri Giants - một đội tuyển bóng chày chuyên nghiệp cũng được tài trợ bởi Nhật báo Yomiuri.[4]
Bản thân tên gọi Long Vương được đề cử khi đó cũng gặp những ý kiến cho rằng nó sẽ khiến mọi người liên tưởng tới đội tuyển bóng chày chuyên nghiệp Chunchi Dragons - "đối thủ truyền kiếp" của Yomiuri Giants, và hơn nữa cũng bị chỉ ra rằng mặc dù được cho là quân cờ mạnh nhất trên bàn cờ khi xuất hiện, quân cờ quan trọng nhất lại là Vương Tướng (mà nếu bị chiếu hết sẽ thua cuộc) nên nếu đặt tên giải đấu là Long Vương chiến và đặt ưu tiên của nó cao hơn Vương Tướng chiến, đó sẽ là sự mỉa mai của câu [ヘボ将棋 王より飛車を 可愛がり - nghĩa nôm na là trong Shogi, quân Vương luôn quý quân Phi Xa nhờ giá trị của nó]. Tuy nhiên tới cuối cùng, tất cả các ứng cử viên cho tên của danh hiệu mới đều bị loại, và tên gọi Long Vương đã được lựa chọn.[5]
Một sự thật rằng tên danh hiệu Long Vương khi sử dụng Hán tự để ghi là 竜王, nhưng quân cờ Long Vương - Phi Xa sau khi được phong cấp trong Shogi lại thường được ghi là 龍王, tức là dạng Tân tự thể của chữ Long (nghĩa là rồng) đã được sử dụng thay vì cách viết cũ. Điều này cũng đã gây ra một số tranh luận nhưng cuối cùng việc sử dụng cách viết mới của chữ Long vẫn được lựa chọn.
Trong tất thảy tám danh hiệu lớn của Shogi chuyên nghiệp Nhật Bản (bao gồm Long Vương - Danh Nhân - Vương Vị - Duệ Vương - Vương Tọa - Kì Vương - Vương Tướng và Kì Thánh), danh hiệu Long Vương và Danh Nhân được ưu tiên hơn cả, với việc nếu một kì thủ sở hữu Long Vương - Danh Nhân hoặc cả hai danh hiệu này, họ sẽ được ưu tiên gọi là "Long Vương" - "Danh Nhân" hoặc là "Long Vương/Danh Nhân" hơn, không cần quan tâm kì thủ đó sở hữu những danh hiệu khác.
Tính tới hết Long Vương chiến kì 34[6] (2021), có tất cả 4 kì thủ đã từng sở hữu cùng lúc cả danh hiệu Long Vương và Danh Nhân[7], đó là:
Một kì Long Vương chiến hoàn chỉnh gồm có ba giai đoạn chính, là Giải đấu Xếp hạng - Xác định Khiêu chiến giả và cuối cùng, sau khi đã tìm ra Khiêu chiến giả là Loạt trận tranh danh hiệu gồm có 7 ván cờ, người chiến thắng trước 4 ván sẽ trở thành đương kim Long Vương. Thể thức này lần đầu tiên được giới thiệu từ kì 19 của Long Vương chiến vào năm 2006[9][10] với sự khác biệt trong việc lựa chọn kì thủ thuộc các tổ của Xếp hạng Chiến và sự sắp xếp hai nhánh của giai đoạn Khiêu chiến giả Xác định. Giai đoạn Xếp hạng Chiến thường bắt đầu từ tháng 11-12 năm trước tới khoảng tháng 5-6 của năm sau, Khiêu chiến giả Xác định bắt đầu từ khoảng đầu tháng 6 tới cuối tháng 8/đầu tháng 9 và Loạt trận tranh danh hiệu sẽ bắt đầu từ đầu tháng 10 tới hết năm.
Giai đoạn đầu tiên của mỗi kì Long Vương chiến là Giải đấu Xếp hạng (ランキング戦, Ranking Tournament trong tiếng Anh), được chia ra làm 6 tổ từ 1 tới 6 (theo thứ tự từ cao tới thấp:1組 - 6組). Giai đoạn này lấy 5 kì thủ tốt nhất từ tổ 1, 2 kì thủ tốt nhất từ tổ 2 và một người chiến thắng từ mỗi tổ còn lại để thu được 11 kì thủ xuất sắc nhất bước vào giai đoạn Xác định Khiêu chiến giả. Thể thức này được sử dụng bắt đầu từ Long Vương chiến kì 19 năm 2006. Ở Xếp hạng Chiến, các kì thủ trong tổ sẽ được bốc thăm để đánh loại trực tiếp (Single Elimination), và tùy vào từng tổ sẽ chọn ra số kì thủ khác nhau và có những thể thức khác nhau. Kể từ Long Vương chiến kì 18 năm 2005 trở về trước, giai đoạn này sẽ lấy 4 kì thủ từ tổ 1, 2 kì thủ từ mỗi tổ 2 và 3, 3 kì thủ xuất sắc nhất ở mỗi tổ còn lại. Do từ năm 2006 có sự thay đổi về việc lấy thêm kì thủ từ tổ 1, số kì thủ được thăng tổ và giáng tổ ở mỗi kì cũng đã được thay đổi.
Dưới đây là bảng mô tả cơ chế hoạt động của Giải đấu Xếp hạng:
Tổ | Bao gồm | Suất đi tiếp | Thăng tổ | Giáng tổ | Tiền thưởng | ||
---|---|---|---|---|---|---|---|
(tính từ kì 30)[8] | (tính từ kì 24-29)[11] | (tính từ kì 23 trở về)[8] | |||||
Tổ 1 | 16 kì thủ | 5 kì thủ gồm:
|
- | 4 kì thủ không giành chiến thắng bất cứ ván đấu nào, thất bại ở Vòng 1 của phần Playoff sẽ xuống chơi ở tổ thấp hơn một bậc ở kì tới. |
|
|
|
Tổ 2 | 2 kì thủ tham gia trận Chung kết tổ 2 | 4 kì thủ mỗi tổ, gồm:
4 kì thủ này sẽ lên tổ cao hơn một bậc chơi ở kì tới |
|
|
| ||
Tổ 3 | 1 kì thủ mỗi tổ, là kì thủ chiến thắng trận Chung kết tổ |
|
|
| |||
Tổ 4 | 32 kì thủ |
|
|
| |||
Tổ 5 |
|
|
| ||||
Tổ 6 | Tất cả các kì thủ còn lại và:
|
- |
|
|
|
Sau khi kết thúc Giải đấu Xếp hạng, các kì thủ không thể lọt vào tới trận Chung kết của nó (ngoại trừ Nữ Lưu kì sĩ - kì thủ nghiệp dư và Kì thủ tới từ Hội Tưởng Lệ ở tổ 6) sẽ tiếp tục thi đấu Playoff để xác định những điều sau đây:
Tuy đánh theo thể thức loại trực tiếp ở giai đoạn Giải đấu Xếp hạng, kì thủ đã nhận một thất bại sẽ chưa phải dừng thi đấu tại Long Vương chiến ngay lập tức mà sẽ tiếp tục cơ hội thi đấu tại Playoff để có thể thăng tổ/trụ tổ trước khi nhận thất bại thứ hai và phải dừng lại hoặc bị giáng tổ. Quy tắc chung của việc giáng tổ là kì thủ đó không thể giành được bất cứ một ván thắng nào trong cả hai giai đoạn là Giải đấu Xếp hạng và Playoff trước khi nhận lấy đủ hai/ba ván thua (tùy từng tổ).
Ở tổ 1, cơ chế của Playoff như sau:
Ở tổ 2 trở xuống, cơ chế của Playoff có những điểm sau đây:
Tổ 6 của Long Vương chiến trong giai đoạn Giải đấu Xếp hạng ngoài sự xuất hiện của tất cả các kì thủ chuyên nghiệp không ở 5 tổ từ 1 tới 5, tổ này còn có sự xuất hiện của:
Tổ 6 sẽ luôn sắp xếp để các Nữ Lưu kì sĩ và kì thủ nghiệp dư (gồm cả kì thủ tới từ Hội Tưởng Lệ) không gặp nhau cho tới vòng Bán kết của tổ này. Từ kì 28[15] trở về trước, vòng đấu đầu tiên ở tổ 6 của các đối tượng không phải kì thủ chuyên nghiệp sẽ luôn phải thi đấu với những kì thủ chuyên nghiệp Tứ đẳng lần đầu tiên tham gia Long Vương chiến, nhưng yêu cầu này đã được loại bỏ từ kì 29[16].
Đối với những đối tượng này, họ vẫn có thể được thăng lên tổ 5 hoặc cao hơn tuy nhiên chỉ có thể được làm điều này thông qua việc chiến thắng Xếp hạng Chiến và cho tới hết Long Vương chiến kì 34[6], vẫn chưa có bất cứ ai thuộc những đối tượng này thành công thăng tổ lên tổ 5. Những kết quả tốt nhất của họ đều là lọt tới vòng Bán kết. (Amano Takashi nghiệp dư ở Long Vương chiến kì 4[17], Nishiyama Tomoka Nữ Lưu Tam quán ở Long Vương chiến kì 33[18] và Oyama Reo nghiệp dư ở Long Vương chiến kì 34[6])
Thành tích tốt nhất của những đối tượng này tại Long Vương chiến là:
Vào tháng 2/2021, Liên đoàn Shogi Nhật Bản[19] đã thông báo về việc một Nữ Lưu kì sĩ - kì thủ nghiệp dư có thể thông qua việc chiến thắng một tổ bất kì trong giai đoạn Giải đấu Xếp hạng của Long Vương chiến để ngay lập tức đủ điều kiện tham gia Kỳ thi Kết nạp Kì thủ chuyên nghiệp (棋士編入試験) [20], hoặc đối với kì thủ đang trực thuộc Hội Tưởng Lệ sẽ nhận thưởng 1 điểm thăng cấp (với 2 điểm thăng cấp, kì thủ đó sẽ ngay lập tức trở thành kì thủ chuyên nghiệp), tuy nhiên vẫn chưa có ai không phải kì thủ chuyên nghiệp đạt được điều kiện này.
Thời gian của các ván cờ
Sau khi kết thúc giai đoạn Giải đấu Xếp hạng, giai đoạn tiếp theo của một kì Long Vương chiến là Xác định Khiêu chiến giả(決勝トーナメント), bao gồm 11 kì thủ:
Ở giai đoạn này, vị trí của các kì thủ trong Giải đấu Xếp hạng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới vị trí mà kì thủ đó xuất phát. Ở trận Chung kết Xác định Khiêu chiến giả thay vì chỉ đánh 1 ván, loạt Chung kết này yêu cầu 3 ván đấu, với kì thủ nào thắng trước hai ván đấu sẽ trở thành Long Vương khiêu chiến giả. Trong giai đoạn Xác định Khiêu chiến giả này, ở mỗi ván cờ một kì thủ sẽ có 5 tiếng byoyomi một phút thời gian.[21] Dưới đây là sơ đồ thể hiện cơ cấu của giai đoạn này:
Cơ cấu Xác định Khiêu chiến giả kể từ Long Vương chiến kì 19 | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|
Chiến thắng tổ 1 | - | - | - | - | Bán kết | Chung kết - Loạt trận 3 ván
Kì thủ thắng trước hai ván ⇒ Long Vương khiêu chiến giả |
Hạng 4 tổ 1 | - | - | - | Vòng 4 | ||
Hạng 5 tổ 1 | - | - | Vòng 3 | |||
Chiến thắng tổ 4 | - | Vòng 2 | ||||
Chiến thắng tổ 5 | Vòng 1 | |||||
Chiến thắng tổ 6 | ||||||
Nhánh Trái ↑↑ | Nhánh Phải ↓↓ | |||||
Hạng 3 tổ 1 | Vòng 4 | Bán kết | ||||
Chiến thắng tổ 2 | ||||||
Hạng 2 tổ 2 | Vòng 3 | Vòng 4 | ||||
Chiến thắng tổ 3 | ||||||
Hạng 2 tổ 1 | - | - | - |
Cơ cấu Xác định Khiêu chiến giả kể từ Long Vương chiến kì 18 trở về trước | |||||
---|---|---|---|---|---|
Chiến thắng tổ 4 | Vòng 2 | Vòng 3 | Bán kết | Chung kết - Loạt trận 3 ván
Kì thủ thắng trước hai ván ⇒ Long Vương khiêu chiến giả | |
Hạng 2 tổ 3 | |||||
Chiến thắng tổ 1 | - | - | |||
Hạng 3 tổ 1 | Vòng 3 | ||||
Hạng 2 tổ 2 | |||||
Nhánh Trái ↑↑ | Nhánh Phải ↓↓ | ||||
Chiến thắng tổ 2 | - | - | Vòng 3 | Bán kết | |
Hạng 3 tổ 1 | - | - | |||
Hạng 2 tổ 1 | - | - | Vòng 3 | ||
Chiến thắng tổ 3 | - | Vòng 2 | |||
Chiến thắng tổ 5 | Vòng 1 | ||||
Chiến thắng tổ 6 |
Đương kim Long Vương và người chiến thắng giai đoạn Xác định Khiêu chiến giả sẽ thi đấu với nhau trong một loạt 7 ván cờ nhằm tranh danh hiệu Long Vương, người thắng trước 4 ván sẽ trở thành người sở hữu danh hiệu Long Vương. Loạt trận 7 ván này được tổ chức ở các địa điểm - thường là khách sạn lớn khắp Nhật Bản. Từ kì Long Vương chiến kì 29 trở về trước, ván đấu đầu tiên thường được tổ chức ngoài Nhật Bản (xem danh sách ở dưới), tuy nhiên từ kì 30 trở đi - ván đấu đầu tiên được tổ chức ở Nhà hát kịch Noh tại Cerulean Tower (セルリアンタワー能楽堂) và mở cửa cho khán giả tới xem.
Mỗi ván đấu, kì thủ tham gia sẽ có 8 tiếng thời gian suy nghĩ và ván đấu diễn ra trong hai ngày, với một nước niêm phong được thực hiện vào cuối ngày thi đấu đầu tiên, để đảm bảo rằng kì thủ đưa ra nước niêm phong này sẽ không có lợi thế khi giấu nước đi này.
Vĩnh thế Long Vuơng (永世竜王 - Eisei Ryuou) là danh dự được trao cho một kì thủ khi họ đạt được một trong hai điều kiện sau đây:
Qua 34 kì tranh đấu tất cả (31/8/2022), đã có hai kì thủ đạt đủ điều kiện để có thể nhận được danh dự Vĩnh thế Long Vương này, đó là:
Lưu ý rằng giống như các danh dự Vĩnh thế của các danh hiệu khác, một kì thủ chỉ được gọi là Vĩnh thế Long Vương khi đã ngừng hoạt động Shogi chuyên nghiệp.
Kì | Năm | Người thắng | Tỷ số | Đối thủ |
---|---|---|---|---|
1 | 1988 | Shima Akira | 4-0 | Yonenaga Kunio |
2 | 1989 | Habu Yoshiharu | 4-3 | Shima Akira |
3 | 1990 | Tanigawa Kōji | 4-1 | Habu Yoshiharu |
4 | 1991 | Tanigawa Koji (2) | 4-2 | Morishita Taku |
5 | 1992 | Habu Yoshiharu (2) | 4-3 | Tanigawa Kōji |
6 | 1993 | Satō Yasumitsu | 4-2 | Habu Yoshiharu |
7 | 1994 | Habu Yoshiharu (3) | 4-2 | Satō Yasumitsu |
8 | 1995 | Habu Yoshiharu (4) | 4-2 | Satō Yasumitsu |
9 | 1996 | Tanigawa Koji (3) | 4-1 | Habu Yoshiharu |
10 | 1997 | Tanigawa Koji (4) | 4-0 | Sanada Keiichi |
11 | 1998 | Fujii Takeshi | 4-0 | Tanigawa Kōji |
12 | 1999 | Fujji Takeshi (2) | 4-1 | Suzuki Daisuke |
13 | 2000 | Fujii Takeshi (3) | 4-3 | Habu Yoshiharu |
14 | 2001 | Habu Yoshiharu (5) | 4-1 | Fujii Takeshi |
15 | 2002 | Habu Yoshiharu (6) | 4-3 | Abe Takashi |
16 | 2003 | Moriuchi Toshiyuki | 4-0 | Habu Yoshiharu |
17 | 2004 | Watanabe Akira | 4-3 | Moriuchi Toshiyuki |
18 | 2005 | Watanabe Akira (2) | 4-0 | Kimura Kazuki |
19 | 2006 | Watanabe Akira (3) | 4-3 | Satō Yasumitsu |
20 | 2007 | Watanabe Akira (4) | 4-2 | Satō Yasumitsu |
21 | 2008 | Watanabe Akira (5) | 4-3 | Habu Yoshiharu |
22 | 2009 | Watanabe Akira (6) | 4-0 | Moriuchi Toshiyuki |
23 | 2010 | Watanabe Akira (7) | 4-2 | Habu Yoshiharu |
24 | 2011 | Watanabe Akira (8) | 4-1 | Maruyama Tadahisa |
25 | 2012 | Watanabe Akira (9) | 4-1 | Maruyama Tadahisa |
26 | 2013 | Moriuchi Toshiyuki (2) | 4-1 | Watanabe Akira |
27 | 2014 | Itodani Tetsurō | 4-1[25] | Moriuchi Toshiyuki |
28 | 2015 | Watanabe Akira (10) | 4-1 | Itodani Tetsuro |
29 | 2016 | Watanabe Akira (11) | 4-3 | Murayama Tadahisa |
30 | 2017 | Habu Yoshiharu (7) | 4-1 | Watanabe Akira |
31 | 2018 | Hirose Akihito | 4-3 | Habu Yoshiharu |
32 | 2019 | Toyoshima Masayuki | 4-1 | Hirose Akihito |
33 | 2020 | Toyoshima Masayuki (2) | 4-1 | Habu Yoshiharu |
34 | 2021 | Fujii Sōta | 4-0 | Toyoshima Masayuki |
35 | 2022 | Fujii Sōta (2) | 4-2 | Hirose Akihito |
36 | 2023 | Fujii Sōta (3) | 4-0 | Itō Takumi |
Tên kì thủ được in đậm để chỉ năm/kì mà kì thủ đã đạt đủ điều kiện cho danh dự Vĩnh thế Long Vuơng.