Margot Robbie

Margot Robbie
Robbie tại Sydney, Úc năm 2018
SinhMargot Elise Robbie
2 tháng 7, 1990 (34 tuổi)
Gold Coast, Queensland, Úc
Trường lớpCao đẳng Somerset
Nghề nghiệpDiễn viên
Năm hoạt động2007 - nay
Phối ngẫuTom Ackerley (2016-)

Margot Elise Robbie[1] (sinh ngày 2 tháng 7 năm 1990) là một nữ diễn viên kiêm nhà sản xuất điện ảnh người Úc. Được biết đến với khả năng diễn xuất thần sầu của mình trong cả dòng phim bom tấn và phim độc lập, cô đã nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm đề cử cho hai giải Oscar, 4 giải Quả Cầu Vàng và 5 giải BAFTA. Tạp chí Time đã vinh danh cô là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất thế giới năm 2017 và cô được xếp hạng là một trong những nữ diễn viên được trả lương cao nhất thế giới bởi Forbes vào năm 2019.

Sau khi khởi nghiệp với một số vai diễn tại quê nhà, nổi bật nhất là vai diễn Donna Freedman trong bộ phim truyền hình thể loại soap-opera Neighbours (2008-2011), cô đã đến nước Mỹ để tiếp tục sự nghiệp đóng phim của mình. Kể từ khi đến chuyển đến Hollywood đầu năm 2011, cô đã tham gia vào một số bộ phim rất được ăn khách như Đã đến lúc (2013), Sói già phố Wall (2014), Thánh lừa (2015). Giải thưởng lớn nhất mà cô đã giành được là "Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất" trong lễ trao giải Empire Awards của năm 2014 sau vai diễn Naomi Lapaglia trong bộ phim Sói già phố Wall.[2]

Sinh ra và lớn lên ở Queensland, Robbie bắt đầu sự nghiệp của mình vào năm 2008 trong bộ phim truyền hình Neighbors, bộ phim mà cô đóng vai chính cho đến năm 2011. Sau khi chuyển đến Mỹ, cô đã tham gia bộ phim truyền hình Pan Am (2011–2012), và có bước đột phá trong 2013 với bộ phim hài đen Sói già phố Wall. Cô đã được công nhận phổ biến hơn với các vai chính như Jane Porter trong Huyền thoại Tarzan (2016) và Harley Quinn trong các bộ phim siêu anh hùng DC, Biệt đội cảm tử (2016), Cuộc lột xác huy hoàng của Harley Quinn (2020) và Điệp vụ cảm tử (2021).

Robbie đã nhận được sự công nhận của giới phê bình và một đề cử cho giải Oscar cho Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất cho vai diễn vận động viên trượt băng nghệ thuật bị ghẻ lạnh Tonya Harding trong bộ phim tiểu sử I, Tonya (2017). Sự công nhận này tiếp tục với vai diễn Nữ hoàng Elizabeth I trong bộ phim cổ trang Mary Queen of Scots (2018), Sharon Tate trong bộ phim hài-chính kịch Chuyện ngày xưa ở... Hollywood (2019) và một nhân viên hư cấu của Fox News trong bộ phim truyền hình Tin "nóng" (2019); cô ấy đã nhận được đề cử giải BAFTA cho cả ba và một đề cử cho giải Oscar cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất cho giải cuối cùng.

Robbie kết hôn với nhà làm phim Tom Ackerley. Họ là những người đồng sáng lập công ty sản xuất LuckyChap Entertainment, theo đó họ đã sản xuất một số bộ phim, bao gồm I, TonyaCô gái trẻ hứa hẹn (2020), cũng như loạt phim truyền hình Dollface (2019–2022) và miniseries Maid (2021).

Tiểu sử và học vấn

[sửa | sửa mã nguồn]

Margot Elise Robbie sinh ngày 2 tháng 7 năm 1990 tại Dalby, Queensland, là con của ông Doug Robbie, một cựu chủ trang trại mía đường, và Sarie Kessler, một nhà vật lý trị liệu.[3] Cô là người con thứ 3 trong số bốn anh chị em; hai người anh chị Anya và Lachlan và em trai Cameron.[4] Cha mẹ cô ly hôn khi cô mới 5 tuổi.[5] Robbie và các anh chị em của cô được nuôi dưỡng bởi người mẹ đơn thân và ít có liên lạc với cha. Gia đình sống trong một trang trại của ông bà cô ở vùng nội địa Gold Coast.[6] Là một đứa trẻ năng động, Robbie thường tổ chức các buổi biểu diễn trong nhà cô.[7]

Cô được mẹ đăng ký vào một trường xiếc, ở đây cô đã rất nổi bật trong môn nhảy dây, và cô nhận được chứng chỉ khi mới 8 tuổi.[8] Ở trường trung học, Robbie học kịch tại Somerset College.[9] Thời niên thiếu, cô đã làm ba công việc cùng một lúc: phục vụ một quán bar, dọn dẹp nhà cửa và làm việc tại Subway.[10][11] Sau khi tốt nghiệp, với một vài quảng cáo và phim kinh dị độc lập trong lý lịch của mình, Robbie chuyển đến Melbourne để bắt đầu diễn xuất chuyên nghiệp.[12]

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong thời gian cô đóng phim ở Mỹ, Robbie đã đối diện với rất nhiều tin đồn tình cảm với các diễn viên nam từng đóng chung với cô như Leonardo DiCaprio[13] (The Wolf of Wall Street), Will Smith[14] (Focus), Alexander Skarsgård[15] (Tarzan). Cô đã xác nhận mối quan hệ tình cảm với một trợ lý đạo diễn người Anh, Tom Ackerley, kể từ sau khi hai người làm việc chung khi quay bộ phim Suite Francaise (2015) hồi tháng 6 năm 2014.[16] Cô tiết lộ trong một bài phỏng vấn được đăng ngày 6 tháng 2 năm 2015 trên trang E! Online của Mỹ rằng cô sẽ không hẹn hò với bất kì một nam diễn viên khác.[17] Cô là một fan bóng đá của CLB Fulham (Football League Championship - Anh)[18] và cũng là fan hâm mộ cuồng nhiệt của đội bóng hockey trên băng New York Rangers (NHL - Mỹ)[19]. Cô là thành viên của một đội bóng hockey trên băng không chuyên tại Mỹ khi cô không phải tham gia đóng phim.[19] Cô xếp thứ 7 trong danh sách 100 người phụ nữ quyến rũ nhất thế giới năm 2015 do tạp chí danh tiếng FHM bầu chọn.[20] Tin đồn Robbie đã đính hôn với người bạn trai Tom Ackerley được rộ lên sau khi những hình ảnh về chiếc nhẫn có hình thức tương tự nhau đã được nhìn thấy trên ngón tay của cả hai khi cô đang có mặt ở Toronto, Canada để quay bộ phim sắp tới của mình, Suicide Squad.[21] Hiện tại, cô sống tại một ngôi nhà cho thuê ở London, Anh cùng với nữ trợ lý của mình và 3 người bạn nam khác của cô.[22]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]
Margot Robbie tại hội nghị San Diego Comic-Con năm 2016.

Robbie bắt đầu sự nghiệp đóng phim của mình vào năm 2007. Cô tham gia vào 2 bộ phim chiếu rạp của Australia là Vigilante (2008)I.C.U (2009) cùng với một số lần xuất hiện khác trong các bộ phim truyền hình như Review with Myles Barlow, The Elephant Princess, và City Homicide. Vai diễn nổi bật nhất của Robbie ở Australia là vai Donna Freedman trong bộ phim truyền hình thuộc thể loại soap-opera, Neighbours từ năm 2008 đến 2011. Nhờ vai diễn này, cô có 2 lần được đề cử tại lễ trao giải Logie Awards của Australia, năm 2009 cho hạng mục "Nữ diễn viên mới tài năng nhất" và năm 2011 cho hạng mục "Nữ diễn viên xuất sắc nhất".

Vai diễn đầu tiên của Robbie ở Mỹ là vai một tiếp viên hàng không có tên Laura Cameron trong một bộ phim truyền hình có tên Pan Am, kéo dài 14 tập, do đài ABC sản xuất từ năm 2011 đến 2012. Robbie có một vai diễn nhỏ trong bộ phim hài About Time (2013) cùng với các diễn viên khác như Rachel McAdams, Domhnall Gleeson, và Bill Nighy. Tên tuổi của cô được nhiều người biết đến hơn sau vai diễn Naomi Lapaglia rất thành công trong bộ phim bom tấn được chuyển thể từ một hồi ký cùng tên của Jordan Belfort, The Wolf of Wall Street (2013), cùng với Leonardo DiCaprio, Jonah Hill, và Matthew McConaughey. Nhờ vai diễn này, cô đã được đề cử cho một số hạng mục của các tổ chức phim khác nhau và cuối cùng cô cũng giành chiến thắng hạng mục "Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất" của Empire Awards năm 2014. Cô sở hữu một vai diễn có tên Celine trong bộ phim nói về chiến tranh thế giới thứ 2, Suite française, ra mắt khán giả đầu năm 2015. Sau đó, Robbie tham gia cùng Will Smith trong bộ phim hài xen lẫn hành động và tình cảm, Focus (2015). Bộ phim này cũng là một thành công khác của cô khi nó thu về hơn $150 triệu đô la Mỹ tiền bán vé và diễn xuất của cô trong vai Jess Barrett cũng được nhiều nhà phê bình phim đánh giá cao. Bộ phim Z for Zachariah có sự tham gia của cô, Chris Pine, và Chiwetel Ejiofor sẽ ra mắt khán giả tại các rạp trong tháng 8/2015. Trong bộ phim này, cô phải thay đổi màu tóc, từ màu vàng quen thuộc mà cô sở hữu trong những bộ phim trước đó, thành màu nâu để phù hợp với nhân vật của cô.

Hình tượng công chúng

[sửa | sửa mã nguồn]
Tập tin:Margot Robbie at "Once Upon A Time In... Hollywood" Photocall in Berlin 2019 (cropped).jpg
Robbie in 2019

Robbie được biết đến với vai chính trong cả các tác phẩm nổi tiếng, chính thống và phim độc lập kinh phí thấp, trong đó cô có thể thể hiện cả khả năng diễn xuất kịch tính và hài hước của mình.[23][24][25][26][27]

Với vai diễn trong Sói già phố Wall, Vanity Fair đã vinh danh cô là một trong những diễn viên đột phá của năm 2013.[28] Năm 2017, cô xuất hiện trong danh sách Forbes 30 Under 30, danh sách tổng hợp các doanh nhân, nhà đổi mới và người trẻ sáng giá nhất, thay đổi trên thế giới và được đưa vào danh sách tương tự do The Hollywood Reporter tổng hợp.[29][30] Cùng năm đó, Time vinh danh cô là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất trên thế giới; cô đóng vai chính trong Sói già phố Wall, đạo diễn Martin Scorsese đã viết bài báo trên tạp chí, đề cập đến Robbie là người có "sự táo bạo độc đáo gây bất ngờ và thách thức và bùng cháy như một thương hiệu trong mọi nhân vật cô ấy đóng. [...] Margot thật tuyệt vời trong tất cả những gì cô ấy là và tất cả những gì cô ấy và cô ấy sẽ làm chúng ta kinh ngạc mãi mãi."[31] Năm 2019, Forbes xếp cô là một trong số những nữ diễn viên được trả lương cao nhất thế giới, với thu nhập hàng năm là 23,5 triệu USD, và The Hollywood Reporter đã liệt kê cô vào danh sách 100 người quyền lực nhất trong làng giải trí.[32][33] Năm 2021, cô được The Hollywood Reporter vinh danh là một trong 100 phụ nữ có ảnh hưởng nhất trong làng giải trí.[34]

Tạp chí Vogue đã gọi cô là "một trong những ngôi sao quyến rũ nhất" và cô được nhà bán lẻ thời trang cao cấp Net-a-Porter xếp hạng là một trong những phụ nữ mặc đẹp nhất năm 2018 và 2019.[35][36] Trong năm 2014 và 2016, cô góp mặt trong Top 99 phụ nữ hàng đầu của AskMen, xếp hạng trong số mười người hàng đầu mỗi năm.[37][38] Cũng trong năm 2016, Robbie được xếp ở vị trí số một trong" 100 phụ nữ quyến rũ nhất thế giới " của FHM.[39] Từ năm 2016, cô được chọn làm đại sứ cho các thương hiệu như Calvin Klein, Nissan và Chanel.[40] Cô là đại sứ thương hiệu cuối cùng được Karl Lagerfeld chọn trước khi ông qua đời vào tháng 2 năm 2019.[41]

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa Phim Vai Diễn Sản Xuất
2008 Vigilante Cassandra Không
2009 ICU Tristan Waters Không
2013 Đã đến lúc Charlotte Không
Sói già phố Wall Naomi Lapaglia Không
2015 Z for Zachariah Ann Burden Không
Thánh lừa Jessica "Jess" Barrett Không
Suite Française Celine Không
Đại suy thoái Chính cô Không
2016 Phóng viên chiến trường Tanya Vanderpoel Không
Huyền thoại Tarzan Jane Porter Không
Biệt đội cảm tử Dr. Harleen Quinzel/Harley Quinn Không
2017 I, Tonya Tonya Harding
Tạm biệt Christopher Robin Daphne de Sélincourt Không
2018 Thỏ Peter Flopsy Rabbit (voice)/Narrator Không
Flopsy Turvy Không
Terminal Annie/Bonnie
Slaughterhouse Rulez Audrey Không
Mary Queen of Scots Queen Elizabeth I Không
2019 Dreamland Allison Wells
Chuyện ngày xưa ở... Hollywood Sharon Tate Không
Tin "nóng" Kayla Pospisil Không
2020 Cuộc trở lại huy hoàng của Harley Quinn Harley Quinn
Cô gái trẻ hứa hẹn
2021 Thỏ Peter 2 Flopsy Rabbit (voice)/Narrator Không
Điệp vụ cảm tử Harley Quinn Không
2022 Vụ án mạng kỳ bí Valerie Voze Không
Babylon Nellie LaRoy Không
2023 Asteroid City TBA
Barbie Barbie

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tựa đề Vai diễn Ghi chú
2008 Review with Myles Barlow Kelly Tập #1.1
2008 Elephant Princess, TheThe Elephant Princess Butterfly (không ghi chú) Tập: "The Butterfly Effect" và "Butterfly Kiss"
2008 City Homicide Caitlin Brentford Tập phim: "Somersaulting Dogs"
2008–2011 Neighbours Donna Freedman 311 tập
2011–2012 Pan Am Laura Cameron 14 tập
2015 Neighbours 30th: The Stars Reunite (chính cô ấy) Phim tài liệu
2016 Saturday Night Live Chính cô / Dẫn chương trình Tập: "Margot Robbie / The Weeknd"

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]

Bài chi tiết: Danh sách giải thưởng và đề cử của Margot Robbie

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Ramsdell, Laurenne (ngày 22 tháng 8 năm 2011). “Marketing the world's most experienced airline: Dover business works to keep Pan Am brand alive”. Foster's Daily Democrat. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2014.
  2. ^ 'I've never won an award before': Margot Robbie stuns in scarlet red gown as she leads the winners at the Empire Film Awards”. DailyMail UK. 30 tháng 3 năm 2014.
  3. ^ Bilmes, Alex (1 tháng 3 năm 2015). “Margot Robbie is Bazaar's April cover star”. Harper's Bazaar. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2015.Marcus, Stephanie (13 tháng 5 năm 2016). “We Can Prove Margot Robbie Isn't Lying About Her Age”. HuffPost. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2016.Fletcher, Jennifer (15 tháng 8 năm 2016). “REVEALED! Why Margot Robbie disowned her sugarcane tycoon dad”. Yahoo!. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2021.
  4. ^ “Margot Robbie's Sad Family Secret”. New Idea. Australia. 15 tháng 8 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) Additional on 19 December 2016. Browne, Sally, with "Revisions by The Margot Robbie Team" (26 tháng 1 năm 2014). “Exclusive Interview with Margot”. Gold Coast (Australia) via Margot Robbie official website. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2015.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  5. ^ Aleksander, Irina (6 tháng 6 năm 2019). “Margot Robbie on Quentin Tarantino, Marriage, and the One Word She Hates Being Called”. Vogue. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2021.
  6. ^ Houghton, Jack (14 tháng 12 năm 2014). “Homegrown Hollywood starlet Margot Robbie home on the Gold Coast for Christmas”. Gold Coast Bulletin. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2016.“Margot Robbie Interview”. Jimmy Kimmel Live!. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2017 – qua YouTube.Overton, Karen Anne (5 tháng 12 năm 2017). “MARGOT ROBBIE ON LIFE IN CLAPHAM & HER NEW FILM I, TONYA”. The Resident. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2021.
  7. ^ “Margot Robbie: A Hollywood actress living the dream”. Together. 1 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2021.
  8. ^ Van Meter, Jonathan (13 tháng 5 năm 2016). “Tarzan's Margot Robbie on Why She's No Damsel in Distress”. Vogue. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2021.
  9. ^ Bilmes, Alex (1 tháng 3 năm 2015). “Margot Robbie is Bazaar's April cover star”. Harper's Bazaar. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2015.
  10. ^ Petersen, Anne Helen (7 tháng 2 năm 2020). “How Margot Robbie Changed Her Hollywood Destiny”. BuzzFeed News. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2020.
  11. ^ Miller, Katie (14 tháng 4 năm 2009). “Margot Robbie still girl next door”. Gold Coast. Australia. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2010.
  12. ^ “Laura Cameron Bio”. American Broadcasting Company. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2011.“Margot Robbie Interview”. Vanity Fair. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2018.
  13. ^ “Leonardo DiCaprio kisses co-star Margot Robbie, hangs out with bikini-clad babes for 'The Wolf of Wall Street' reshoots”. NYDailyNews. Ngày 26 tháng 2 năm 2013.
  14. ^ “Nothing to see here! Will Smith and Margot Robbie put affair rumours behind them as they greet fans on last day on Focus set”. DailyMail UK. Ngày 10 tháng 12 năm 2013.
  15. ^ “Alexander Skarsgard & Margot Robbie Romance Rumors Heat Up Sundance”. JustJared.com. Ngày 25 tháng 1 năm 2015.
  16. ^ “Sorry boys, she's still taken! Margot Robbie reveals she and British director Tom Ackerley are still very much together after eight months of dating”. DailyMail UK.
  17. ^ “Why Margot Robbie Doesn't Want to Date Any Actors”. E! Online.
  18. ^ “Margot Robbie shows support for Fulham as Wolf of Wall Street actress attends Millwall match”. DailyMail UK. Ngày 20 tháng 8 năm 2014.
  19. ^ a b 'Wolf of Wall Street' star Margot Robbie is an amateur hockey player and Rangers fan”. ftw.USAToday.com. Ngày 13 tháng 1 năm 2014.
  20. ^ “Michelle Keegan named FHM's Sexiest Woman in the World”. 28 tháng 4 năm 2015.
  21. ^ “Margot Robbie Looks Snatched Up, But Is It... Promise Ring or Real Thing?”. TMZ.com. 18 tháng 6 năm 2015. line feed character trong |title= tại ký tự số 14 (trợ giúp)
  22. ^ “Margot Robbie shunned luxury living for London house move with pals”.
  23. ^ ALLAIRE, Christian (6 tháng 6 năm 2019). “5 Things You Didn't Know About Margot Robbie”. Vogue. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  24. ^ Macnab, Geoffrey (2 tháng 7 năm 2020). “Funny, tough and emotionally daring: Why Margot Robbie is one of the most versatile stars of her generation”. The Independent. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  25. ^ SANDBERG, Bryn (13 tháng 11 năm 2017). “How to Become the Next Margot Robbie”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  26. ^ Hoffmann, Jordan (25 tháng 2 năm 2015). “Focus review – Will Smith and Margot Robbie in the perfect con movie, almost”. The Guardian. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  27. ^ Kermode, Mark (25 tháng 2 năm 2018). “I, Tonya review – Margot Robbie doesn't put a foot wrong”. The Guardian. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  28. ^ “The Top 10 Breakthrough Actors Of 2013”. Vanity Fair. 19 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  29. ^ “Margot Robbie”. Forbes. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  30. ^ Ford, Rebecca (8 tháng 11 năm 2017). “Next Gen Talent 2017: Hollywood's Rising Stars 35 and Under”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  31. ^ Scorsese, Martin (20 tháng 4 năm 2017). “Time 100: Margot Robbie”. Time. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2017.
  32. ^ Berg, Madeline (23 tháng 8 năm 2019). “The Highest-Paid Actresses 2019: Scarlett Johansson Leads With $56 Million”. Forbes. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2019.
  33. ^ Brower, Alison (16 tháng 10 năm 2019). “The Hollywood Reporter 100: The Most Powerful People in Entertainment 2019”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2019.
  34. ^ “in Entertainment Power 100”. The Hollywood Reporter. 12 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2021.
  35. ^ “Best Dressed 2018”. Net-a-Porter. 28 tháng 12 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2018.
  36. ^ “Best Dressed 2019”. Net-a-Porter. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2020.
  37. ^ “4. Margot Robbie”. AskMen. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  38. ^ “Margot Robbie”. AskMen. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2021.
  39. ^ “The 100 Sexiest Women In The World, 2016”. FHM. 29 tháng 12 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2016.
  40. ^ Rippon, Remy (4 tháng 5 năm 2016). “Margot Robbie has a new job as the face of a major beauty brand”. Vogue Australia. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.Powers, Chris (21 tháng 2 năm 2017). “Nissan signs actress Margot Robbie as electric vehicle ambassador”. New York Daily News. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2017.De Klerk, Amy (16 tháng 3 năm 2018). “Margot Robbie revealed to be the latest Chanel ambassador”. Harper's Bazaar. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2018.
  41. ^ Bitmead, Charlotte (28 tháng 8 năm 2019). “Margot Robbie Dances To Beyoncé In Chanel's New Perfume Campaign”. Elle. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2019.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Tổng hợp các shop quần áo TAOBAO đã cập bến trên Shopee
Tổng hợp các shop quần áo TAOBAO đã cập bến trên Shopee
Không cần đặt hàng qua trung gian cầu kỳ lại hay trôi nổi lạc hàng, lưu ngay 6 tọa độ đồ nam Taobao cực xịn trên shopee
Josef Martínez - Hiện thân của một Atlanta United trẻ trung và nhiệt huyết
Josef Martínez - Hiện thân của một Atlanta United trẻ trung và nhiệt huyết
Tốc độ, sức mạnh, sự chính xác và một ít sự tinh quái là tất cả những thứ mà ta thường thấy ở một tay ném bóng chày giỏi
Nhân vật Chitanda Eru trong Hyouka
Nhân vật Chitanda Eru trong Hyouka
Chitanda Eru (千反田 える, Chitanda Eru) là nhân vật nữ chính của Hyouka. Cô là học sinh lớp 1 - A của trường cao trung Kamiyama.
Giải đáp một số câu hỏi về Yelan - Genshin Impact
Giải đáp một số câu hỏi về Yelan - Genshin Impact
Yelan C0 vẫn có thể phối hợp tốt với những char hoả như Xiangling, Yoimiya, Diluc