Nephrit | |
---|---|
Nephrit ở Jordanów Śląski (Ba Lan) | |
Thông tin chung | |
Thể loại | Inosilicate |
Công thức hóa học | Ca2(Mg,Fe)5Si8O22(OH)2[1] |
Hệ tinh thể | một nghiêng[1] |
Nhận dạng | |
Màu | Trong mờ hoặc đục và thường có đốm. Có màu từ xanh lục sáng đến xanh lục sẫm, vàng đến nâu, trắng, xám, đen.[1] |
Dạng thường tinh thể | khối[1] |
Vết vỡ | mảnh vụn đến hạt[1] |
Độ cứng Mohs | 6 - 6.5[1] |
Ánh | mờ[1] |
Tỷ trọng riêng | 2,95 (+.15, -.05)[1] |
Láng er | ánh thủy tinh đến ánh nhờn[1] |
Thuộc tính quang | khúc xạ kép với các phản ứng tổng hợp bất thường[1] |
Chiết suất | 1.606 - 1.632 (+.009, -.006)[1] |
Khúc xạ kép | thường không thể phát hiện[1] |
Đa sắc | không[1] |
Huỳnh quang | trơ[1] |
Nephrit (ngọc bích) là một biến thể của actinolit trong nhóm amphibol giàu magnesi và calci (tập hợp khoáng vật của chúng cũng tạo thành một dạng asbestos). Công thức hóa học của nephrit là Ca2(Mg, Fe)5Si8O22(OH)2.[1]
Ngọc bích và phỉ thuý là hai loại khoáng vật có công thức hoá học khác nhau nhưng cùng được gọi là ngọc thạch (tiếng Anh: jade). Phỉ thuý là một biến thể của pyroxen.
Tên nephrite có nguồn gốc từ lapis nephriticus, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là λίθος νεφριτικός. νεφρός λίθος, có nghĩa là 'đá (sỏi) thận' và là phiên bản tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp của piedra de ijada trong tiếng Tây Ban Nha (nguồn gốc từ jade và jadeite). Theo đó, ngọc bích nephrite từng được cho là có thể chữa được bệnh sỏi thận.
Ở Việt Nam, nephrit được gọi là ngọc bích. Nephrite khai thác ở vùng Hoà Điền, Tân Cương, Trung Quốc còn được gọi là ngọc Hòa Điền.
Nhiều người vì nghe tên "ngọc bích" mà nhầm tưởng rằng loại ngọc này chỉ có màu xanh bích. Thực chất, chữ "bích" [璧] trong tên "ngọc bích" cũng là một từ chỉ ngọc. Trong bài thơ Tô Tần Đình kỳ 2, Nguyễn Du có viết: "Hoàng kim bách dật, bích bách song" (黄金百鎰璧百雙), dịch ra là "Hoàng kim trăm dật, ngọc bích trăm đôi."
Các nguồn nephrit được tìm thấy trên toàn cầu. Các nguồn chính là British Columbia, Canada; Tỉnh Tân Cương, Trung Quốc; Đông Sayan gần Hồ Baikal của Nga; và Chuncheon, Hàn Quốc. Các nguồn khác, khai thác hạn chế bao gồm New Zealand, Nam Úc, tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc, Val Malenco ở Ý và Wyoming tại Hoa Kỳ.
Hòa Điền là một thị trấn ở tỉnh Tân Cương, Trung Quốc, các sản phẩm nephrit khai thác ở đây thường đồng nghĩa với chất lượng tốt nhất. Mặc dù sản lượng hiện tại không cao như trước đây, khu vực này được biết đến với việc khai thác dương chi bạch ngọc (ngọc màu trắng mỡ cừu) nổi tiếng, là nephrit trắng chất lượng hàng đầu.[2] Khu vực này cũng cho ra các màu nephrit khác. Nephrit xanh chủ yếu đến từ Thung lũng sông Manasi ở lưu vực rừng phía nam.
Tên thương mại cho nephrit trắng chất lượng cao nhất.
Nephrit thô khai thác trực tiếp từ mỏ sơ cấp (trên núi).
Nephrit thô thu thập được ở các con sông, suối gần đó, là kết quả của quá trình phong hóa từ nguồn sơ cấp trên núi cao.
Có hơn 50 mỏ nephrite ở British Columbia, được phân phối dọc theo một vành đai đá kéo dài về phía bắc hơn 1.000 dặm (1.600km), từ Biên giới Hoa Kỳ đến tận Yukon ở tây bắc Canada. Tất cả nephrite ở đây có xanh lục. Các mỏ Mount Ogden và Kutcho là hai nguồn nephrite xanh sản lượng cao nhất. Mỏ Polar ở British Columbia là mỏ nephrite xanh lá cây nổi tiếng nhất về mặt thương mại. Về mặt sản xuất, British Columbia là khu vực cung cấp nephrite lớn nhất thế giới hiện nay.
Các nguồn Nephrite ở Siberia, Nga, được tập trung quanh Đông Sayan trong khu vực hồ Baikal. Vùng phái tây nam của hồ cho chủ yếu là nephrite màu xanh lá cây, trong khi ở phía đông bắc thì có nephrite màu trắng. Thời tiết khắc nghiệt và thức địa hình khắc nghiệt khiến cho việc khai thác nephrite ở Siberia cực kỳ khó khăn, nhưng nhu cầu ngày càng tăng từ Trung Quốc khiến cho việc khai thác vẫn kinh tế. Nhìn chung, nephrite xanh của Nga có chất lượng cao hơn nephrite của Canada. Còn nephrite trắng ở khu vực này về chất lượng không kém cạnh nephrite trắng ở Trung Quốc