Nguyễn Phúc Lương Đức

An Thường Công chúa
安富公主
Công chúa nhà Nguyễn
Thông tin chung
Sinh26 tháng 7 năm 1817
Mất13 tháng 5 năm 1891 (73 tuổi)
An tángPhường Thủy Biều, Huế
Phu quânPhan Văn Oánh
Hậu duệ4 con trai
Tên húy
Nguyễn Phúc Lương Đức (阮福良德)
Nguyễn Phúc Tam Xuân (阮福三春)
Thụy hiệu
Mỹ Thục An Thường Công chúa
美淑安常公主
Thân phụNguyễn Thánh Tổ
Minh Mạng
Thân mẫuMỹ nhân
Nguyễn Thị Bân

Nguyễn Phúc Lương Đức (chữ Hán: 阮福良德; 26 tháng 7 năm 181713 tháng 5 năm 1891), trước có tên là Tam Xuân (三春)[1], phong hiệu An Thường Công chúa (安常公主), là một công chúa con vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.

Công chúa Lương Đức nổi tiếng là người hiếu thuận, cũng là một nhà thơ trong chốn cung đình như Nguyễn triều Tam Khanh (阮朝三卿)[2], nhưng tác phẩm của bà chỉ là thơ đối đáp ứng khẩu, không gom thành thi tập.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Công chúa Lương Đức sinh ngày 13 tháng 6 (âm lịch), là con gái thứ tư của vua Minh Mạng, mẹ là Bát giai Mỹ nhân Nguyễn Thị Bân[3]. Công chúa là chị ruột của Hàm Thuận công Nguyễn Phúc Miên Thủ. Công chúa Lương Đức lúc sinh ra đĩnh ngộ lạ thường, có tính hiếu thuận, vua rất yêu quý[1].

Năm công chúa Lương Đức 9 tuổi, nhân tiết Vạn Thọ (sinh nhật vua), các công chúa được vào hầu cơm vua cha. Gặp đại quan tiến vua món đuôi dê và nầm dê (nầm dê tức là nầm sữa của con cái), vua chia ban cho các nàng công chúa. Đến lượt chúa Lương Đức, bà chỉ ngậm lại không nuốt[1]. Vua thấy lạ mới hỏi tại sao, thì công chúa thưa rằng: "Mẹ thần có bệnh, không được thấm ơn; thần trộm nghĩ món này rất bổ, nên để lại cho mẹ". Vua biết ý ngợi khen, truyền cho lấy phần khác để công chúa cất dâng bà Mỹ nhân, các quan hầu đều rất cảm động, có người rơi nước mắt[1].

Lúc hơi lớn, vua xuống dụ cho công chúa Lương Đức ở điện Trinh Minh, cho các nữ quan dạy thi, sử, và nữ công gia chánh[1]. Công chúa học tiến bộ, rất minh mẫn và chuyên cần. Một hôm, có cung nữ bất cẩn làm rơi than sưởi mà cháy cả mành trướng, công chúa kinh sợ vội kêu ban trực, rồi tự thân đôn đốc dập lửa nhưng mau chóng dập tắt được. Vua Minh Mạng lúc đó từ Thuận An về nghe tâu, khen ngợi và ban thưởng cho công chúa 3 lạng vàng[1].

Thọ Xuân vương Miên Định, hoàng tử thứ ba của Minh Mạng, có câu thơ nói về việc này: Vương cơ bất tác phi lai trĩ / Bác đắc An Thường mãn tụ kim. Tạm dịch: Con vua bỗng làm chim trĩ bay tới, cứu được bình yên, vàng thưởng đầy tay áo An Thường (An Thường là phong hiệu của công chúa)[1].

Năm Minh Mạng thứ 15 (1834), vua đi tuần du phương nam, sai chúa Lương Đức sang hầu ở cung Từ Thọ, là nơi ở của bà Nhân Tuyên Thái hậu Trần Thị Đang, mẹ vua. Công chúa sớm tối tươi tỉnh vui vẻ, rất được lòng bà nội[1]. Khi vua trở về, thưởng cho tấm thẻ bài bạch ngọc, có dây thao rủ xuống[1].

Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), mùa đông, bà Mỹ nhân Nguyễn thị mất, công chúa thương xót để thân thể gầy còm, không buồn điểm trang, hết lòng lo tang[1]. Ba năm sau (1840), vua Minh Mạng băng hà, công chúa đau thương ngất đi tưởng chừng như đã tắt thở. Vua anh Thiệu Trị thường lấy cháo của vua ăn còn lại đem cho, khuyên chúa nên bớt lòng thương[1]. Lúc vua cha mới ngã bệnh, chúa tự mình sắc thuốc nấu cháo để dâng, sớm chiều hầu hạ không biết mỏi mệt. Trong 3 năm để tang, chưa từng thấy công chúa cười đùa[1].

Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), vua anh gả bà Lương Đức cho Phò mã đô úy Phan Văn Oánh, con trai thứ 4 của Đô thống phủ Chưởng phủ sự, tước Chương Nghĩa hầu Phan Văn Thúy[1]. Khi về nhà chồng, chúa rất mực lễ phép, chăm lo việc phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con cái, không cậy mình con vua.

Năm Tự Đức thứ nhất (1848), bà Lương Đức được phong An Thường Công chúa (安常公主)[1]. Năm thứ 15 (1862), phò mã Oánh mất, thụyAnh Mại, công chúa Lương Đức dâng sớ xin xây mộ sẵn dành cho mình để sau này được hợp táng cùng chồng[1].

Năm thứ 19 (1866), mùa hạ, mừng thọ công chúa Lương Đức 50 tuổi, vua sai hoàng thân cùng thái giám đem tờ dụ và vật phẩm ban cho làm lễ thọ. Năm thứ 31, vua thấy bà tuổi đã cao nên gia thưởng cho mỗi năm 100 quan tiền, 50 phương gạo để dưỡng già[1].

Năm Hàm Nghi thứ nhất (1885), tháng 5 (âm lịch), Pháp tấn công vào kinh thành, công chúa đang trực tại điện Hiếu Tư, chợt nghe báo động, lạy khóc ra đi để tránh, đến Hiếu lăng của vua Minh Mạng thì quân binh coi giữ lăng đã chạy tan, vào thấy đền thờ, tự khí bỏ ngổn ngang thì bà liền cất tiếng khóc to, rồi ở lại đấy coi giữ không chịu đi[1]. Đến lúc 3 bà Tam cung[4] quay về thì công chúa mới theo hầu, sau khi vua Đồng Khánh lên ngôi thì bà mới về phủ đệ[1].

Mùa xuân năm Thành Thái thứ 3 (1891), Trang Ý Hoàng thái hậu Võ Thị Duyên ra dụ truyền công chúa họa lại bài thơ Phục cử Giao tự đại lễ (Lại cử hành lễ tế Nam Giao) của bà Nguyễn Nhược Thị Bích (cung tần của vua Tự Đức) sáng tác[1]. Bà vâng lệnh, hoạ vần dâng lên, thơ có câu:

Phiên âm:
Hưởng đế ngô hoàng tuần cổ chế
Phối thiên liệt thánh hữu thành qui.
Nghĩa:
Tế thần trời, vua ta theo phép cổ được sánh vối trời
Các vua đời trước đã có nếp sẵn.

Đến câu kết là:

Phiên âm:
Hà hạnh vi thần, bồi mật nhĩ
Mộ niên trùng đổ Hán uy nghi.
Nghĩa:
May sao kẻ vi thần được hầu gần
Khi tuổi già được thấy uy nghi nhà Hán.

Cả hai bài xướng và hoạ được Lưỡng cung khen hay, Từ Dụ vui mừng trao lụa, gấm thưởng cho bà và phán: "Quý nhân và công chúa đều cùng một ý kiến, chung sự vui buồn và cảm hứng ra thi ca. Toàn bài của công chúa rất trang nhã; hai cặp trạng luận tả rất thiết thực, câu kết càng hay. Thật đã xứng đáng với thẻ bài phụ vương ban khi trước".

Công chúa Lương Đức tuổi già mộ đạo Phật, có biệt hiệu là Thanh Từ[1]. Khi ấy Tôn Nhân phủ cho là hiếu hạnh đáng khen, xin nêu khen thì bàn với nhau rằng, chốn nhà vua là nơi bắt đầu nền phong hóa, không thể theo như lệ của dân thường được, nên việc đó bãi bỏ.

Năm Thành Thái thứ 3 (1891), ngày 6 tháng 4 (âm lịch), công chúa Lương Đức mất, thọ 75 tuổi, thụyMỹ Thục (美淑)[5]. Tẩm mộ của bà được song táng cùng phò mã Oánh tại làng Nguyệt Biều (nay thuộc phường Thủy Biều, Huế)[5]. Tẩm của công chúa Lương Đức là một trong số ít các lăng tẩm công chúa còn giữ được nguyên vẹn. Bà có 4 con trai, 4 cháu nội và 5 chắt nội. Con trưởng là Phan Văn Huy tập ấm chức Hiệu úy.

Tuy Lý vương Miên Trinh có làm bài thơ đề vào ảnh nhỏ của bà như sau[1]:

Tốt thay!
Chị của ta là người ăn nói nhu mì,
Tính nết tốt, nghĩa ngợi thành thực,
Mũ áo chững chạc,
Lời nói không ra khỏi cửa.
Vương cơ là bậc tôn quý,
Biết cần kiệm khiêm ức,
Bảy điều răn đã quen,
Ba chữ tòng là phép,
Có con được hiếu,
Có cháu hầu bên cạnh,
Phục thọ chua hết,
Khang ninh đức tốt.
Ôi! Phong hoá nhà vua,
Từ nhà rồi ra đến nước,
Bốn phương xem đến cảm hoá,
Là khuôn mẫu ở nơi đồng sử.

Tác phẩm

[sửa | sửa mã nguồn]

Về tài thơ văn của công chúa Lương Đức, tuy không phổ biến cũng như không được lưu lại trong sách, nhưng chỉ một bài tán trên của ông Tuy Lý Vương cũng đủ chứng minh tài năng đức độ đến lời văn của công chúa đã đạt đến mức cảm hoá được lòng người.

Bài thơ Đường luật độc nhất còn lại của công chúa đó là:

HOA PHỤC CỬ GIAO TỰ ĐẠI LỄ (hoạ thơ bà Lễ tần Nhược Bích)

Phiên âm từ chữ Hán:
Âm tiêu dương phục quỹ tư di
Thất tải giao yên thịnh tại ty
Hưởng đế ngôi hoàng tuần cổ chế
Phối thiên liệt thánh hữu thành qui
Phong đình phụ bật tư lương tá
Tiêu dịch canh dương hạ duệ ti
Hà hạnh vi thần bồi mật nhĩ
Mộ niên trùng kiến Hán uy nghi
Nguyên tác của bà Nhược Bích:
Kỷ tải liêu liêu phong tục di
Hà kỳ thịnh điển phục vu ti
Di cung thiếu đế khôi tiền liệt
Hiệp tán lương thần tục cựu quy
Sa đổ u quan phu chúng vọng
Tài văn chung cổ khởi nhân ti,
Cổ lai lễ nhạc duy bạn bổn
Dục trị hoàn ưng dụng hạ nghi.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u Đại Nam liệt truyện, tập 3, quyển 9 – phần An Thường Công chúa Lương Đức
  2. ^ Tam Khanh chỉ 3 bà công chúa con vua Minh Mạng: Vĩnh Trinh, Trinh ThậnTĩnh Hòa, vì lần lượt tên tự của họ là Trọng Khanh, Thúc KhanhQuý Khanh.
  3. ^ Nguyễn Phúc tộc thế phả, tr.318
  4. ^ Tam cung bao gồm Thái hậu Từ Dụ, Khiêm Hoàng hậu Võ Thị Duyên và Học phi Nguyễn Văn Thị Hương.
  5. ^ a b Nguyễn Phúc tộc thế phả, tr.319
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan