Bài viết này hiện đang gây tranh cãi về tính trung lập. |
Lệ Thiên Anh Hoàng hậu 儷天英皇后 | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hoàng quý phi Đại Nam | |||||||||||||
Tại vị | 1870 - 1883 | ||||||||||||
Tiền nhiệm | Không có Hoàng quý phi đầu tiên Nhà Nguyễn | ||||||||||||
Kế nhiệm | Hoàng quý phi Nguyễn Hữu Thị Nhàn | ||||||||||||
Hoàng thái hậu Đại Nam | |||||||||||||
Tại vị | 1885 - 1889 | ||||||||||||
Tiền nhiệm | Từ Dụ hoàng thái hậu | ||||||||||||
Kế nhiệm | Từ Minh Hoàng thái hậu | ||||||||||||
Thái hoàng thái hậu Đại Nam | |||||||||||||
Tại vị | 1889 - 1902 | ||||||||||||
Tiền nhiệm | Từ Dụ Thái hoàng thái hậu | ||||||||||||
Kế nhiệm | Phụ Thiên Thái hoàng thái hậu | ||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||
Sinh | 20 tháng 6 năm 1828 Lệ Thủy, Quảng Bình | ||||||||||||
Mất | 3 tháng 6, 1902 Phú Xuân, Đại Nam | (73 tuổi)||||||||||||
An táng | 19 tháng 07 năm 1902 Khiêm Thọ Lăng (謙壽陵) | ||||||||||||
Phu quân | Nguyễn Dực Tông Tự Đức | ||||||||||||
Hậu duệ |
| ||||||||||||
| |||||||||||||
Tước hiệu | Phủ thiếp (府妾) Cung tần (宮嬪) Cần phi (勤妃) Thuần phi (純妃) Trung phi (忠妃) Hoàng quý phi (皇貴妃) Trung phi (忠妃) (bị giáng) Hoàng hậu (皇后) Hoàng thái hậu (皇太后) Thái hoàng thái hậu (太皇太后) | ||||||||||||
Tước vị | Khiêm Hoàng hậu (謙皇后) | ||||||||||||
Hoàng tộc | Nhà Nguyễn | ||||||||||||
Thân phụ | Võ Xuân Cẩn | ||||||||||||
Thân mẫu | Trần phu nhân |
Võ Thị Duyên (chữ Hán: 武氏緣, 20 tháng 6 năm 1828 - 3 tháng 6 năm 1902) hay còn gọi Lệ Thiên Anh hoàng hậu (儷天英皇后) là chính thất của Nguyễn Dực Tông Tự Đức, vị quân chủ thứ tư của nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Bà là trường hợp đặc biệt ở Hậu cung nhà Nguyễn, chưa bao giờ làm Hoàng hậu dưới thời trị vì của chồng, nhưng vào thời Hiệp Hòa, bà với thân phận ["Hoàng tẩu"] (tức chị dâu) của Tân đế, được phong Khiêm Hoàng hậu (謙皇后). Bà rất được Từ Dụ Hoàng thái hậu yêu mến. Bấy giờ vua Tự Đức không có con, bèn nhận 3 vị hoàng tử từ trong hoàng gia làm con nuôi, bà được phó thác nuôi dạy Thụy quốc công Ưng Chân, tức Dục Đức.
Bà có tên là Duyên (緣),[1] lại có tên là Hài (諧),[2] sinh vào năm Minh Mạng thứ 9 (1828), ngày 9 tháng 5 âm lịch, bà xuất thân từ dòng họ Võ Xuân (武春氏) ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Cha bà là Đông Các đại học sĩ Lệ Quốc công Võ Xuân Cẩn, mẹ là Lệ Quốc phu nhân họ Trần. Bà từ bé nhàn tĩnh đoan nhã, tính khí nhu mì đặc biệt, lại thông thạo sách vở, hiểu nội tấc, cũng như rành rẽ việc trong nhà.[cần dẫn nguồn]
Ở Về sau, mẹ đích của Hoàng hậu là phu nhân họ Bạch được truy tặng Trang Nhân Lệ Quốc phu nhân (莊仁麗國夫人), mẹ đẻ phu nhân họ Trần được phong Trinh Từ Lệ Quốc phu nhân (貞慈麗國夫人).
Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), bà được tuyển vào cung hầu Tự Đức, khi đó còn là Phúc Tuy công, tại Tiềm để. [3] Vốn tính đoan trang, hiếu thuận, nên bà rất được mẹ chồng là Nghi Thiên Chương Hoàng Hậu và chồng yêu quý.[4]
Năm thứ 7 (1848), Phúc Tuy công Hồng Nhậm lên kế vị, Võ thị được tấn phong làm Cung tần theo lệ của triều đình. Dựa theo việc xảy ra tương tự thời Thiệu Trị, có lẽ là do phải chờ mãn tang 3 năm sau cái chết của Tiên Đế mới bắt đầu tiến hành phong hiệu chính thức các tần phi.
Năm 1850, bà được lập làm Cần phi (勤妃) ở hàng Nhị giai, cùng với 12 bà khác được phong trong dịp đó. Lời sách văn viết
Năm 1859, nhân ngày thọ 50 của Thái hậu Từ Dụ, Tự Đức muốn tấn phong cho toàn bộ các bà trong cung gồm 14 người, nhưng mãi đến năm sau mới cử hành. Năm 1860, Nhị giai Cần phi được thăng lên làm Nhất giai Thuần phi (純妃). Lời sách văn viết
Năm sau, bà được đổi làm Trung phi (忠妃), vẫn để nguyên kim sách như cũ, chỉ đổi chữ Thuần thành chữ Trung mà thôi. Năm 1870, bà trở thành Hoàng quý phi (皇貴妃), chuẩn cho trông coi lục viện. Vì thời điểm đó ngôi vị Hoàng hậu vẫn để trống nên ngôi vị của bà coi như cao nhất trong hậu cung. Lại có dụ rằng
Năm Tự Đức thứ 35 (1882), mùa đông, bà bị giáng làm Trung phi, không cho trông coi lục viện nữa. Nguyên nhân là vì việc quản lý nhân sự của bà không được chu toàn. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép: "Lúc bấy giờ cơ vụ rất nhiều, (vậy mà) có khi quá trưa vua mới được ăn. Vua se mình đang uống thuốc, cung nhân tiến cơm hơi chậm (làm) trái ý vua" [5]. Nguyên văn bài chiếu quở trách của Hoàng đế đối với bà như sau
Năm thứ 36 (1883), Tự Đức băng hà. Trước khi mất, Tiên đế di chiếu tôn bà làm Hoàng thái hậu, để "trị việc trong nhà và dạy tự quân". Người kế vị là Hoàng tử Nguyễn Phúc Ưng Chân, vị hoàng tử được bà dạy dỗ từ trước, tức Dục Đức.
Dục Đức tại vị được 3 ngày thì bị hai phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường phế bỏ,[6] giam trong ngục Thừa Thiên, rồi mất sau đó không lâu.[7] Sau khi ép chết Tự quân, cả hai ông này lập người em của Tự Đức là Lãng Quốc công Nguyễn Phúc Hồng Dật lên kế vị, tức Trang Cung Văn Lãng Quận vương, con trai thứ 29 của Thiệu Trị trở thành Hoàng đế Hiệp Hòa.
Mùa thu, năm 1883, theo di chiếu, đình thần định tôn lập bà làm Hoàng Thái hậu. Nhưng chưa kịp tổ chức lễ, thì bà đã đến cung Gia Thọ lạy từ Thái hoàng Thái hậu Từ Dụ để xin ra chầu thờ ở Lăng Tự Đức và không dám nhận tôn hiệu thái hậu, vì xét thấy mình đã không làm tròn việc dạy dỗ tự quân (tức Dục Đức). Khi ấy, Hiệp Hòa ngỏ ý mời bà đến điện Cao Minh để bái yết và dâng cơm, nhưng bà không nhận mà đi thẳng ra Ôn Khiêm đường ở Khiêm Lăng. Sau khi hỏi ý kiến các tôn nhân và đình thần, tham khảo điển tích về các Hoàng tẩu thời nhà Tống bên Trung Quốc, Hoàng đế tôn bà là Khiêm Hoàng hậu (謙皇后).
Tháng 10, năm 1883, Hiệp Hòa cũng bị Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường giết chết [8], rồi tôn Kiến Phúc lên thay. Kể từ thời điểm đó bà được tôn là Hoàng Thái hậu, cùng với Thái hoàng Thái hậu Từ Dụ và mẹ nuôi của Kiến Phúc là Hoàng thái phi Nguyễn Thị Hương, gọi là Tam cung. Tờ chiếu viết rằng
“ | Tôn lễ của hậu và đế do nghĩa mà có. Thánh mẫu Trung phi của ta đức sánh ngang mặt trời, sánh phối cùng Thượng đế. Nắm giữ đức nhân từ nhu thuận, trên thừa hoan phụng, dưới suất tần ngự để giúp Hoàng khảo ta trong 36 năm trời. Giáo hóa bề trong sánh Cơ Sằn, Cơ Tử. Hoàng mẫu ta là Học phi bẩm tính từ trường, thực hành nhân hậu, thừa mệnh Hoàng khảo nuôi dạy ta từ nhỏ đến lúc trưởng thành. Nay ta vâng chịu phó thác, lấy thiên hạ nuôi dưỡng từ thân, cũng là một cách tôn kính. | ” |
Tháng 6, năm 1884, vua Kiến Phúc chết đột ngột. Lập tức, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường tôn Hàm Nghi lên thay. Tháng 3, năm 1885, Hàm Nghi chính thức cử hành lễ tấn phong Nghi Thiên Thái hoàng thái hậu, nhân đó muốn xin tôn phong huy hiệu cho Hoàng Thái hậu như đúng lễ nhưng bà không nhận.
Lúc xảy ra Trận Kinh thành Huế 1885, Hàm Nghi phải xuất bôn ra Quảng Trị, bà cùng chạy theo Nghi Thiên Thái hoàng thái hậu ra đấy. Cùng chạy với bà còn có Hoàng Thái phi Nguyễn Văn thị, mẹ nuôi của Kiến Phúc. Khi nghị hòa xong, Tam cung về ngụ ở Khiêm Lăng.
Đến khi Đồng Khánh kế vị, quân đội Pháp trao trả lại kinh thành Huế cho triều đình nhà Nguyễn thì Tam cung quay trở về Kinh. Thái hậu về lại cung Trường Ninh, về sau đổi tên là cung Trường Sanh trong Hoàng thành Huế.
Ngày 27 tháng 4, năm Đồng Khánh thứ 2 (1887), vua Đồng Khánh cùng quần thần dâng sách vàng, gia tôn cho bà tôn hiệu là Trang Ý Hoàng Thái hậu. Đến tháng 10, năm 1889 (Thành Thái năm thứ nhất), Từ Dụ Bác Huệ Thái hoàng Thái hậu được Thành Thái dâng tôn hiệu là Từ Dụ Bác Huệ Khang Thọ Thái thái hoàng thái hậu (慈裕博惠康壽太太皇太后) còn Trang Ý Hoàng thái hậu thì được tôn làm Trang Ý Thuận Hiếu Thái hoàng thái hậu (莊懿順孝太皇太后).
Năm Thành Thái thứ 14 (1902), ngày 27 tháng 4 (tức ngày 03 tháng 06 dương lịch), Ngày Kỷ tỵ (ngày 27) Thái Hoàng thái hậu chết. Lúc đầu là Thái Hoàng thái hậu không khỏe, vua bên cạnh hầu hạ, đến lúc ấy trở nặng, linh giá thăng hà, thọ 75 tuổi, kính đặt tử cung ở điện Ôn Khiêm.
Vua truyền đem tin quốc hiếu bố cáo cho trong ngoài, nói “Đêm 26 tháng này Hoàng tổ mẫu Trang ý Thuận hiếu Thái Hoàng thái hậu ta thánh cung không khỏe, trẫm bên cạnh hầu hạ khẩn cầu cung Dao tụ phúc, ngày càng khỏe mạnh, để an ủi lòng tôn thân của thần thứ. Đến giờ Mùi ngày 27 tháng này linh giá thăng hà, nhớ lại đức tốt, kính ngưỡng từ huy, gào khóc không thôi. Duy quốc gia lấy hiếu trị dân, điển lễ rất trọng, các việc nghi thức tang phục cần làm giao cho bộ Lễ kê tra điển lệ nêu rõ từng khoản bàn kỹ tâu lên chờ chỉ thi hành”.
Đặt án cúng ở điện Ôn Khiêm, mỗi ngày tế điện ba lần. Tháng 5, xây dựng sơn lăng. Trước là trong niên hiệu Đồng Khánh xây Vạn vạn niên cát cục ở núi bên trái Khiêm lăng, đến lúc ấy sai Thượng thư lãnh Tham tri bộ Binh Nguyễn Văn Thịnh, Thống chế sung Chưởng vệ Nhất vệ kinh binh Hồng Đơn phụng sung Đổng lý Tôn cục, tuân chiểu tôn cục của Nghi thiên Chương hoàng hậu chế tạo biện lý, chi tiền 10.000 đồng.
Triều đình nước Pháp cùng các quý đại thần Toàn quyền, Khâm sứ, Thống sứ Bắc Kỳ cùng Công sứ các tỉnh được tin quốc hiếu đều gởi thư gởi điện văn tới viếng tang, do Cơ mật viện tâu lên.
Sai Thượng thư lãnh Tham tri bộ Binh Nguyễn Văn Thịnh sung Đổng lý Tôn cục, kiêm sung Đổng lý Tang nghi Thống chế Nguyễn Viết Hữu làm phó, phàm gặp việc thì bàn bạc với ba bộ Lễ Binh Công biện lý. Ngày Giáp tuất (ngày 15) tháng 05 âm lịch làm lễ thành phục.
Tháng 6 ngày Nhâm thìn (ngày 4). Dâng tôn thụy cho Đại hành Trang ý Thuận hiếu Thái Hoàng thái hậu là Lệ thiên Phụ thánh Trang ý Thuận hiếu Cần thứ Ôn từ Hiền minh Tĩnh thọ Anh hoàng hậu (儷天輔聖莊懿順孝勤恕溫慈賢明靜壽英皇后).
Vua truyền đem ngày ninh lăng bố cáo cho trong ngoài. Ngày Quý mão (ngày 15) tháng 06 âm lịch, tức ngày 19 tháng 07 năm 1902, cử hành đại lễ Ninh lăng. Trước đó sai quan sung Tổng hộ Chánh Phó sứ và Đề đốc quân Tả hữu thủy bộ, lại sai hai viên đại thần văn vũ Lưu kinh cùng đem việc tế cáo với miếu điện và đền Lệ quốc công, đền Tích Chỉ.
Ngày Canh tý (ngày 12) vua đích thân suất lãnh quần thần tới án cúng làm lễ khải điện. Đến hôm ấy linh giá ra đi từ điện Ôn Khiêm, vua đi bộ theo. Đến giờ Mão an huyền cung ở núi bên trái Khiêm lăng, dâng tên là Khiêm Thọ lăng, đề thần vị ở trước thái điện tôn lăng, Lễ xong đặt thần vị ở điện Ôn Khiêm.
Cha bà Võ Xuân Cẩn truy tặng Lệ Quốc công (麗國公), chức Ngự tiền đại thần, Thái tử Thái bảo, Đông Các đại học sĩ, đặc tiến Kim Tử Vinh Lộc đại phu. Bạch phu nhân mẹ đích và Trần phu nhân mẹ đẻ đều phong Lệ Quốc phu nhân.
Trong nhà bà còn 4 người anh em khác. Võ Xuân Phúng làm tới Hàn Lâm viện Thị giảng học sĩ, Võ Xuân Nhân làm Tri phủ của phủ Trọng Khánh, Võ Xuân Hội làm Lang trung bộ Công và Võ Xuân Đạm làm Tu soạn.
Năm | Tác Phẩm | Diễn Viên | Nhân Vật |
2020 | Phượng khấu | Ngọc Xuyên | Võ An Duyên |