Ninjutsu (忍術) | |
---|---|
Tên khác | Ninpō, Shinobi-jutsu |
Mức độ bạo lực | Phi cạnh tranh |
Xuất xứ | Nhật Bản |
Ảnh hưởng từ | Chiến thuật quân sự |
Ninjutsu (忍術 (Nhẫn thuật)) đôi khi được dùng thay thế cho cụm từ hiện đại ninpō (忍法 (Nhẫn pháp)), là chiến lược và chiến thuật của chiến tranh ngoại lệ, chiến tranh du kích và gián điệp được thực hiện một cách công khai bởi những Ninja. Ninjutsu từng là một môn học quân sự riêng biệt ở một số ngôi trường cổ của Nhật Bản, tích hợp nghiên cứu các môn võ thuật (taijutsu) thông thường cùng với shurikenjutsu (thủ lý kiếm thuật), kenjutsu (kiếm thuật), sōjutsu (thương thuật), bōjutsu (bổng thuật) và những loại khác.
Dù hiện đang có một tổ chức võ thuật quốc tế tiêu biểu cho một số phong cách hiện đại của ninjutsu nhưng dòng lịch sử của những phong cách này hiện vẫn đang gây tranh cãi. Một số trường phái tự nhận là hậu duệ chính thống của thuật này, nhưng ninjutsu không bị tập trung hóa giống các môn võ thuật hiện đại khác như judo hay karate. Togakure-ei được cho là loại hình lâu đời nhất được ghi chép lại, và đã tồn tại được qua thế kỷ 16.
Việc làm gián điệp ở Nhật Bản đã có từ thời Thánh Đức Thái Tử (Shōtoku) (572-622), tuy nhiên nguồn gốc của ninja đã xuất hiện từ sớm hơn rất nhiều. Theo Shōninki, lần đầu tiên ninjutsu được sử dụng rộng rãi trong chiến dịch quân sự là khi Chiến tranh Genpei nổ ra Minamoto no Yoshitsune đã lựa chọn ra các chiến binh để làm shinobi trong suốt cuộc chiến. Bản thảo này còn nói rằng trong thời đại Kenmu, Kusunoki Masashige đã thường xuyên sử dụng nhẫn thuật. Theo như những chú thích trong bản thảo này, Chiến tranh Genpei kéo dài từ 1180 - 1185, và cuộc Tân chính Kenmu đã xảy ra vào khoảng thời gian 1333 - 1336. Ninjutsu đã được khai triển bởi một nhóm người chủ yếu đến từ Kōka và Tỉnh Iga của Nhật Bản.
Xuyên suốt lịch sử, shinobi là những sát thủ, do thám, và điệp viên được thuê phần lớn bởi các lãnh chúa (daimyō). Ninja chủ yếu được biết đến với việc sử dụng kĩ thuật tàng hình và những mưu mẹo. Trong suốt chiều dài lịch sử, nhiều môn phái (ryū) khác nhau đã giảng dạy những phiên bản ninjutsu bí truyền của riêng họ. Một ví dụ cho điều này là môn phái Togakure-ei, được xây dựng sau khi một samurai bại trận có tên Daisuke Togakure đã tẩu thoát đến vùng Iga. Sau đó, ông đã liên lạc với Kain Doshi - một nhà sư chiến binh (tăng binh), người đã dạy anh một cái nhìn mới về cuộc sống và ý nghĩa của sự sống còn (ninjutsu).
Ninjutsu được phát triển như một sự tổng hợp các kỹ thuật sống sót cơ bản trong thời kỳ chiến tranh của Nhật Bản phong kiến. Các ninja sử dụng nhẫn thuật để đảm bảo sự sống của họ trong thời kỳ rối loạn bạo lực chính trị. Ninjutsu gồm các phương pháp thu thập thông tin và các kỹ thuật tránh bị phát hiện, trốn thoát, và đánh lạc hướng. Ninjutsu liên quan đến việc luyện tập chạy tự do vượt chướng ngại vật (tương tự như parkour), ngụy trang, tẩu thoát, ẩn náu, bắn cung và y thuật. Các kỹ năng liên quan đến hoạt động gián điệp và ám sát đã cực kỳ hữu ích cho các phe phái tham chiến trong thời phong kiến Nhật Bản. Đôi khi các kỹ năng gián điệp trở nên được biết đến rộng rãi với tên gọi ninjutsu, và những người chuyên làm các công việc này này được gọi là shinobi no momo (Nhẫn giả).
Theo các thành viên Bujinkan, Ninja Jūhakkei (Nhẫn giả Thập bát hình - Mười tám thuật ninja) đã được ghi lần đầu trong cuộn giấy của môn phái Togakure-ei và sau đó được dùng cho tất cả các môn phái ninjutsu. Ninja jūhakkei thường được nghiên cứu cùng với Bugei jūhappan (Vũ vân Thập bát bàn - Mười tám loại võ thuật samurai)
18 thuật đó là:
Các công cụ sau có thể không chỉ ninja mới sử dụng, nhưng chúng thường được kết hợp với việc luyện tập ninjutsu.
Vũ khí có khớp nối và ghép
Vũ khí đấm tay
Vũ khí từ công cụ biến đổi
Vũ khí phóng
Gậy gộc và giáo mác
Kiếm
Dụng cụ tàng hình