Novaculichthys taeniourus

Novaculichthys taeniourus
Cá trưởng thành
Cá con
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Novaculichthys
Bleeker, 1862
Loài (species)N. taeniourus
Danh pháp hai phần
Novaculichthys taeniourus
(Lacépède, 1801)
Danh pháp đồng nghĩa

Chi:

  • Malacocentrus Gill, 1862
  • Dimalacocentrus Gill, 1863
  • Semachlorella Fowler & Bean, 1928

Loài:

  • Labrus taeniourus Lacépède, 1801
  • Julis bifer Lay & Bennett, 1839

Novaculichthys taeniourus, còn được gọi là bàng chài đai đuôi[2], loài cá biển duy nhất thuộc chi Novaculichthys trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1839.

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

N. taeniourus có phạm vi phân bố rộng khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Ở Ấn Độ Dương, loài cá này được ghi nhận từ Biển Đỏ và vùng bờ biển OmanYemen trải dài theo bờ biển Đông Phi đến Nam Phi, bao gồm Madagascar và các đảo quốc lân cận; từ bờ biển Nam Ấn ĐộSri Lanka, trải dài về phía nam đến bờ biển bang Tây Úc (bao gồm các rạn san hô vòng, quần đảobãi cạn ngoài khơi thuộc Úc); từ biển Andaman, N. taeniourus xuất hiện trên khắp vùng biển các nước Đông Nam Á, ngược lên phía bắc đến đảo Đài Loan và vùng biển Nam Nhật Bản, về phía nam trải dài đến rạn san hô Great Barrier và bờ biển Đông Úc (bao gồm đảo Lord Howe); ở phạm vi phía đông, N. taeniourus được ghi nhận tại nhiều đảo quốcquần đảo thuộc châu Đại Dương (bao gồm cả quần đảo Hawaii); phạm vi của loài này còn xuất hiện trải dài từ phía nam vịnh California, trải dọc theo bờ biển Trung Mỹ đến Colombia, bao gồm tất cả các quần đảo ngoài khơi[1].

N. taeniourus sống gần các rạn san hô trên nền đáy cát lẫn đá sỏi cũng như trong các đầm phá ở độ sâu đến 35 m[3].

Chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận ở N. taeniourus là 30 cm[3]. Cơ thể và các vây của cá trưởng thành có màu nâu lục; hai bên lườn có những đốm trắng trên mỗi vảy. Đầu có các sọc nâu viền trắng ở quanh phía sau của mắt. Vây đuôi có dải trắng đặc trưng bao quanh cuống đuôi. Những cá thể lớn hơn thường có bụng và ngực màu đỏ nâu[4][5].

Cá con có màu nâu lục, đỏ nâu hoặc xanh lục, với rải rác các đốm trắng khắp cơ thể. Hai gai vây lưng của cá con ở gần đầu vươn cao trông như cặp sừng của rồng nên khi còn nhỏ, N. taeniourus còn được gọi là dragon wrasse (bàng chài rồng)[4]. Do màu sắc và cấu tạo hình dáng cơ thể nên thoạt nhìn những cá thể con rất giống với những chiếc lá hoặc rong tảo trôi theo dòng nước[4].

Số gai ở vây lưng: 9 (2 gai đầu tiên vươn dài ở cá con); Số tia vây ở vây lưng: 12–13; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 12–13[3].

Sinh thái và hành vi

[sửa | sửa mã nguồn]

N. taeniourus trưởng thành thường bơi theo cặp. Chúng dùng mõm để đẩy và bới những mảnh đá lớn để tìm thức ăn. Thông thường, một con sẽ chịu trách nhiệm công việc đào bới, và con còn lại chỉ việc chộp lấy con mồi, và cứ thế thay phiên nhau[3]. Vì hành vi này mà N. taeniourus còn có tên gọi khác là rockmover wrasse (bàng chài di chuyển đá)[4].

Thức ăn của N. taeniourus là các loài động vật thân mềm, động vật giáp xác và cả loài nhím biển[3].

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Pollard, D.; Yeeting, B.; Liu, M. (2010). Novaculichthys taeniourus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T187441A8536165. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T187441A8536165.en. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2021.
  2. ^ Novaculichthys taeniourus (Lacépède, 1801)”. Hệ Thống Cơ Sở Dữ Liệu Quốc Gia Về Đa Dạng Sinh Học Việt Nam. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2020.
  3. ^ a b c d e Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2020). Novaculichthys taeniourus trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2020.
  4. ^ a b c d Monika Mira (2009), The Complete Hawaiian Reef Fish Coloring Book, Nhà xuất bản Lucid Publishing, tr.33 ISBN 9780979337406
  5. ^ D. Woodland (2001). K. E. Carpenter; V. H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Vol. 6. Bony fishes part 4 (Labridae to Latimeriidae), estuarine crocodiles, sea turtles, sea snakes and marine mammals (PDF). FAO Species Identification Guide for Fishery Purposes. FAO. tr. 3447. ISBN 978-9251045893.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Đức Phật Thích Ca trong Record of Ragnarok
Đức Phật Thích Ca trong Record of Ragnarok
Buddha là đại diện của Nhân loại trong vòng thứ sáu của Ragnarok, đối đầu với Zerofuku, và sau đó là Hajun, mặc dù ban đầu được liệt kê là đại diện cho các vị thần.
Chu Kỳ Bitcoin Halving: Sự Kiện Định Hình Tương Lai Crypto
Chu Kỳ Bitcoin Halving: Sự Kiện Định Hình Tương Lai Crypto
Phát triển, suy thoái, và sau đó là sự phục hồi - chuỗi vòng lặp tự nhiên mà có vẻ như không một nền kinh tế nào có thể thoát ra được
Dungeon ni Deai wo Motomeru no wa Machigatteiru Darou ka Season 2 Vietsub
Dungeon ni Deai wo Motomeru no wa Machigatteiru Darou ka Season 2 Vietsub
Một Du hành giả tên Clanel Vel, phục vụ dưới quyền một bé thần loli tên Hestia
Danh sách địa điểm du lịch Tết cực hấp dẫn tại Châu Á
Danh sách địa điểm du lịch Tết cực hấp dẫn tại Châu Á
Bạn muốn du lịch nước ngoài trong dịp tết này cùng gia đình hay bạn bè? Sẽ có nhiều lựa chọn với những vùng đất đẹp như mơ trong mùa xuân này. Dưới đây là những địa điểm du lịch tại Châu Á mà bạn phải đến trong dịp Tết này.