Pasang Lhamu Sherpa Akita

Pasang Lhamu Sherpa Akita (sinh năm 1984)[1] là một người leo núi người Nepal Sherpa. Cô là người phụ nữ đầu tiên của Nepal trở thành một hướng dẫn viên leo núi, là một trong những phụ nữ Nepal đầu tiên lên tới đỉnh K2 và đã tích cực cứu trợ động đất ở Nepal.[2] Năm 2016, cô được vinh danh là Nhà thám hiểm lựa chọn của năm của Tạp chí Hội Địa lý Quốc gia Hoa Kỳ,[3][4] và được trao giải thưởng Đoàn kết quốc tế Alps lần thứ 45 tại Pinzolo, Ý.[5]

Akita là người phụ nữ đầu tiên leo lên Nangpai Gosum II, vào năm 2006.[1] Năm 2007, cô leo lên đỉnh Everest[6] 14 năm sau khi một người leo núi khác có cùng tên là Pasang Lhamu Sherpa, trở thành người phụ nữ Nepal đầu tiên leo lên đỉnh Everest.[7][8]

Akita đã leo lên K2 vào năm 2014 như là một phần của đội ba người phụ nữ, đội đầu tiên của phụ nữ Nepal leo lên núi.[9][10] Leo núi cùng Akita là Maya Sherpa và Dawa Yangzum Sherpa; họ là một phần của cuộc thám hiểm lớn hơn bao gồm cả những người Sherpa (nam) khác và những người leo núi.[11] Cuộc leo núi được dành riêng cho nhận thức về biến đổi khí hậu, và diễn ra vào kỷ niệm 60 năm ngày diễn ra việc leo núi đầu tiên của K2.[9]

Cô cũng đã leo lên đỉnh Yala Peak, Ama Dablam,[12] Lobuche,[6] Imja Tse,[8]Aconcagua.[5] Cũng như leo núi ở Nepal, cô đã hướng dẫn các cuộc thám hiểm leo núi ở Hoa Kỳ, Argentina, Pháp và Pakistan.[5]

Hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Akita gia nhập Phòng khám Nomads, một dịch vụ y tế cho các vùng xa xôi của dãy Hymalaya vào năm 2013.[1] Sau trận động đất ở Nepal vào tháng 4 năm 2015, cô làm việc trong các nỗ lực cứu trợ, phân phát chăn, giúp che chở cho những người mà trận động đất đã làm họ mất nhà cửa,[3] tổ chức các cơ sở y tế tạm thời,[5] điều phối các đoàn xe cứu trợ và ngăn chặn nạn buôn người.[1] Cô cũng đang phát triển một nền tảng để hỗ trợ giáo dục phụ nữ ở Nepal.[6]

Akita sinh ra ở Khumjung,[4] và lớn lên ở Lukla.[3] Cha cô mất khi cô còn nhỏ, và cô và em gái của cô đã mồ côi vì cái chết của mẹ cô khi cô 15 tuổi. Họ chuyển đến Kathmandu, nơi cô hoàn thành việc học ở trường trung học và làm công việc leo núi.[6] Bốn năm sau, cô tham gia khóa đào tạo tại Trung tâm leo núi Khumbu của Conrad Anker.[3] Cô cũng đã giành được bằng tốt nghiệp leo núi từ École nationalale du Ski et de l'alpinisme (ENSA) của Pháp tại Chamonix.[13]

Gia đình cô sở hữu một nhà hàng ở Louisville, Colorado, nơi cô thỉnh thoảng làm việc giữa những chuyến thám hiểm leo núi của mình.[10]

Tên đầu tiên của cô, Pasang, là từ tiếng Nepal chỉ ngày thứ Sáu, ngày sinh của cô.[14] Cô được đặt tên đầy đủ sau Pasang Lhamu Sherpa, người phụ nữ Nepal đầu tiên leo lên đỉnh Everest, người mà cô lấy làm hình mẫu.[8] Tên họ Akita đến từ chồng cô, một nhà trị liệu vật lý người Nepal gốc Nhật, người mà cô gặp trong khi hồi phục chấn thương hông leo núi và kết hôn vào năm 2010.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e Solnit, Rebecca (ngày 21 tháng 12 năm 2015), “Medical Mountaineers: Delivering basic care to the remote Himalayas”, The New Yorker.
  2. ^ “Mountaineer Pasang Lhamu Sherpa Akita: One of Nepal's rising stars in climbing immersed herself in earthquake relief efforts, showing her courage both on and off the mountain”, National Geographic, ngày 13 tháng 11 năm 2015.
  3. ^ a b c d Potts, Mary Anne (ngày 4 tháng 2 năm 2016), “This Sherpa Woman Is Our Adventurer of the Year”, National Geographic, Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 2 năm 2016, truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2019.
  4. ^ a b Chaulagain, Garima (ngày 19 tháng 6 năm 2016), “Pasang Lhamu Sherpa Akita receives Nat Geo's award”, The Kathmandu Post.
  5. ^ a b c d Beltrame, Elena Baiguera (ngày 11 tháng 9 năm 2016), “Premio Solidarietà Alpina alla sherpa Pasang Lhamu”, Trentino (bằng tiếng Ý)[liên kết hỏng].
  6. ^ a b c d Kassar, Chris (ngày 1 tháng 9 năm 2016), “Trail Blazer: Nepal's First Female Mountaineering Instructor”, Climbing.
  7. ^ Wilkinson, Freddie (2010), One Mountain Thousand Summits: The Untold Story of Tragedy and True Heroism on K2, Penguin, tr. 116, ISBN 9781101456132.
  8. ^ a b c Osius, Alison (ngày 17 tháng 2 năm 2016), “Snowball Fight on K2: Interview with Pasang Lhamu Sherpa Akita”, Rock & Ice, Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2016, truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2019 Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |archivedate=|archive-date= (trợ giúp).
  9. ^ a b Parker, Chris (ngày 29 tháng 7 năm 2014), “First All-Female Nepalese Team Summits K2”, Rock & Ice.
  10. ^ a b Kassar, Chris (ngày 13 tháng 10 năm 2014), “Pasang Lhamu Sherpa Akita speaks”, Elevation Outdoors.
  11. ^ McMillan, Kelley (ngày 7 tháng 8 năm 2014), “Controversy Over "All-Female" Summit of K2—Men Aided Climb”, National Geographic Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp).
  12. ^ 2016 Presentation: Pasang Lhamu Sherpa Akita, Telluride Mountain Film, truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2016.
  13. ^ “Charitable Expedition Makes History On World's Second Highest Peak”, Women's Adventure, ngày 1 tháng 8 năm 2014.
  14. ^ Wyrick, Randy (ngày 5 tháng 3 năm 2016), “World's greatest mountaineers gather for Sherpa community Losar celebration”, Vail Daily.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Cái chết bí ẩn của thảo thần tiền nhiệm và sự kiện tại Sumeru
Cái chết bí ẩn của thảo thần tiền nhiệm và sự kiện tại Sumeru
Như chúng ta đều biết, mỗi đất nước mà chúng ta đi qua đều sẽ diễn ra một sự kiện mà nòng cốt xoay quanh các vị thần
Ngôn ngữ của trầm cảm - Language use of depressed and depression
Ngôn ngữ của trầm cảm - Language use of depressed and depression
Ngôn ngữ của người trầm cảm có gì khác so với người khỏe mạnh không?
Neia và màn lột xác sau trận chiến bảo vệ thành Loyts
Neia và màn lột xác sau trận chiến bảo vệ thành Loyts
Neia và màn lột xác sau trận chiến bảo vệ thành Loyts, gián điệp do "Nazarick cộng" cài vào.
Tổng hợp các thông tin về ReVanced
Tổng hợp các thông tin về ReVanced
ReVanced là team sẽ tiếp nối dự án của team Vanced - hỗ trợ tạo ra bản mod YouTube không quảng cáo cho mọi người