Periko Alonso

Periko Alonso
Alonso năm 1981
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Miguel Ángel Alonso Oyarbide
Ngày sinh 1 tháng 2, 1953 (71 tuổi)
Nơi sinh Tolosa, Tây Ban Nha
Chiều cao 1,76 m
Vị trí Tiền vệ
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
Tolosa
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1974–1977 San Sebastián 86 (40)
1977–1982 Real Sociedad 152 (25)
1982–1985 Barcelona 54 (5)
1985–1988 Sabadell 103 (17)
Tổng cộng 395 (87)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
1981 Tây Ban Nha B 2 (1)
1980–1982 Tây Ban Nha 20 (1)
1979 Xứ Basque 1 (0)
Sự nghiệp quản lý
Năm Đội
1988–1989 Tolosa
1989–1992 San Sebastián
1993–1995 Beasain
1995–1998 Eibar
1998–1999 Hércules
2000 Real Sociedad
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Miguel Ángel 'Periko' Alonso Oyarbide (sinh ngày 1 tháng 2 năm 1953) là một cựu cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha chơi ở vị trí tiền vệ và huấn luyện viên.

Trong sự nghiệp chuyên nghiệp của mình, ông chủ yếu chơi cho Real Sociedad (5 năm) và Barcelona (3 năm), chơi ở La Liga tổng cộng 273 trận và ghi 42 bàn thắng trong 10 mùa giải.[1]

Là thành viên Đội tuyển Tây Ban Nha trong hai năm, Alonso đã đại diện cho đất nước tại World Cup 1982.

Sự nghiệp cầu thủ

[sửa | sửa mã nguồn]

Sinh ra ở Tolosa, Gipuzkoa, Alonso thi đấu chuyên nghiệp cho Real Sociedad, FC BarcelonaCE Sabadell FC. Với câu lạc bộ đầu tiên Sociedad, ông là người đóng vai trò quan trọng trong 2 lần vô địch La Liga liên tiếp (trung bình 32 trận ghi 5 bàn thắng trong những mùa giải đó và không đá chính chỉ một lần), và thắng 19 trong số 20 trận cho đội tuyển Tây Ban Nha trong giai đoạn này; trận ra mắt của anh ấy diễn ra vào ngày 24 tháng 9 năm 1980 trong một trận đấu giao hữu với đội tuyển Hungary (2–2), ở Budapest.[2]

Ở mùa giải La Liga 1982–83, sau khi giã từ đội tuyển quốc gia sau thất bại chiến dịch World Cup trên sân nhà, Alonso gia nhập Barcelona,[3] và được sử dụng tương đối ít trong phần lớn thời gian thi đấu của mình. Ông đã vô địch giải đấu ở mùa giải La Liga 1984–85 nhưng chỉ xuất hiện hai lần, cuối cùng giải nghệ vào năm 1988 với người hàng xóm Barça là Sabadell, giúp câu lạc bộ thăng hạng từ Segunda DivisiónSegunda División 1985-86 và ghi 12 bàn thắng – thành tích tốt nhất trong sự nghiệp – ở mùa giải La Liga 1986-87 (mùa giải thứ 2 của ông ở đội), khi đội bóng nhỏ bé của Catalans xếp thứ 17 sau 34 trận đầu tiên, nhưng cuối cùng đã tránh được sự tụt hạng sau khi đứng thứ ba trong nhóm xuống hạng ở giai đoạn thứ hai.[4]

Bàn thắng quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]
# Ngày Sân thi đấu Đối thủ Tỷ số Kết quả Giải đấu
1. 18 tháng 11, 1981 Stadion ŁKS, Łódź, Ba Lan  Ba Lan 2–3 2–3 Giao hữu[5]

Sự nghiệp huấn luyện

[sửa | sửa mã nguồn]

Alonso bắt đầu làm huấn luyện viên ngay sau khi nghỉ hưu, chủ yếu ở Xứ Basque. Năm 2000, sau quãng thời gian không thành công ở Hércules CF (giải hạng hai và xuống hạng), ông có cơ hội dẫn dắt Real Sociedad nhưng chỉ trụ được 10 trận, sau đó ông về hưu.[6]

Cuộc sống cá nhân

[sửa | sửa mã nguồn]

Các con trai của Alonso, MikelXabi, cũng là cầu thủ bóng đá và là các tiền vệ. Cả hai đều nối bước cha mình khi đại diện cho Real Sociedad, và người em trai Xabi Alonso cũng chơi rất thành công cho Liverpool, Real Madrid, FC Bayern Munich và đội tuyển Tây Ban Nha.[7][8]

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Real Sociedad

Barcelona

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Leyendas de la Real Sociedad – Periko Alonso” [Real Sociedad legends – Periko Alonso]. El Diario Vasco (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2017.
  2. ^ Castillo, J. J. (25 tháng 9 năm 1980). “2–2: Empate justo en partido versallesco” [2–2: Fair draw in versaillescque match]. Mundo Deportivo (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2018.
  3. ^ Alonso, Ignacio (25 tháng 5 năm 1982). “A 'Perico' Alonso le llegó un poco tarde la fama” [Fame came to 'Perico' Alonso a little late]. El País (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2018.
  4. ^ Batista Rodríguez, Giovanni (26 tháng 1 năm 2016). “Periko Alonso, el éxito tardío” [Periko Alonso, a late success] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Vavel. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2019.
  5. ^ Stanski, Gzregorz (19 tháng 11 năm 1981). “2–3: España remontó a Polonia en un final alucinante” [2–3: Spain came back from behind against Poland in mind-blowing finale] (PDF). Mundo Deportivo (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2016.
  6. ^ Ortiz de Arri, Eduardo (23 tháng 12 năm 2000). “Periko Alonso abandona la Real Sociedad y el oficio de entrenador” [Periko Alonso quits Real Sociedad and coaching]. El País (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2019.
  7. ^ Varona, Alfredo (2 tháng 9 năm 2009). “El pasado azulgrana de Alonso” [Alonso's azulgrana past]. Público (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2012.
  8. ^ Astrain, Jon (27 tháng 2 năm 2010). “Mikel versus Xabi en Tenerife” [Mikel versus Xabi in Tenerife]. El Diario Vasco (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2012.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Hướng dẫn build đồ cho Neuvillette - Genshin Impact
Hướng dẫn build đồ cho Neuvillette - Genshin Impact
Chỉ kích hoạt các passive khả thi chứ ko phải full sức mạnh của vũ khí, ví dụ như Điển tích tây phong chỉ lấy 2 stack
Nhân vật Tsugikuni Yoriichi -  Kimetsu no Yaiba
Nhân vật Tsugikuni Yoriichi - Kimetsu no Yaiba
Tsugikuni Yoriichi「継国緑壱 Tsugikuni Yoriichi」là một kiếm sĩ diệt quỷ huyền thoại thời Chiến quốc. Ông cũng là em trai song sinh của Thượng Huyền Nhất Kokushibou.
Nhân vật Geto Suguru - Jujutsu Kaisen
Nhân vật Geto Suguru - Jujutsu Kaisen
Geto Suguru (夏げ油とう傑すぐる Getō Suguru?, Hạ Du Kiệt) là một phản diện trong bộ truyện Chú thuật hồi chiến và tiền truyện Chú thuật hồi chiến - Trường chuyên chú thuật Tokyo
[X-Men] Nhân vật Apocalypse - The First One
[X-Men] Nhân vật Apocalypse - The First One
Câu chuyện của Apocalypse (En Sabah Nur) bắt đầu khi anh ta sinh ra vào khoảng 5000 năm trước công nguyên ở Ai Cập