Phạm Ngộ | |
---|---|
Tên húy | Chúc Kiên |
Tên hiệu | Liêu Khê |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên húy | Chúc Kiên |
Ngày sinh | không rõ |
Nơi sinh | Hải Dương |
Mất | không rõ |
Giới tính | nam |
Nghề nghiệp | nhà thơ |
Quốc tịch | nhà Trần |
Phạm Ngộ (chữ Hán: 范悟, hay Phạm Tông Ngộ, ? - ?); hiệu: Liêu Khê; là nhà thơ và là quan nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
Phạm Ngộ là người làng Kính Chủ, huyện Giáp Sơn; nay là xã Hoành Sơn, thị xã Kinh Môn, tỉnh Hải Dương.
Ông nguyên họ Chúc, tên Kiên; sau Trần Nhân Tông (ở ngôi: 1285-1293) cho rằng họ Chúc không phải là họ lớn, mới cho đổi thành họ Phạm, còn tên Kiên vì trùng với tên Phán thủ Huệ Nghĩa nên đổi thành Ngộ[1].
Theo tài liệu thì ba cha con ông đều hay thơ. Cha (không rõ tên) là nhà sư ở Phù Thạch (Hà Tĩnh), anh là Phạm Mại (hay Phạm Tông Mại), làm quan đồng thời với ông [2].
Không rõ Phạm Ngộ có thi đỗ gì không, chỉ biết khi Trần Nhân Tông xuất gia (Kỷ Hợi, 1299), Phạm Ngộ và Phạm Mại đều được cử làm Thị nội học sinh để theo hầu [1].
Dưới triều Trần Minh Tông (ở ngôi: 1314-1323), ông được điều động làm Tri thẩm hình viện sự, sau lần lượt thăng các chức: Tả ty lang trung, Tri chính sự, đồng Tri thượng thư tả ty sự[3].
Ông làm quan nổi tiếng ngay thẳng, thanh liêm và cẩn trọng [4].
Tác phẩm của Phạm Ngộ hiện chỉ còn 8 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục và Việt âm thi tập.
Thơ Phạm Ngộ là loại thơ ít lời nhiều ý, ít nói thẳng tâm sự của mình ra, mà dùng hình ảnh, dùng cảnh vật để nói thay. Những hình ảnh nhà thơ sử dụng đều giàu sức biểu cảm, gợi thi hứng rất nhiều. Nhìn chung, thơ ông tự nhiên, đôn hậu, trong sáng như hầu hết những cây bút tiêu biểu trong dòng thơ thời Lý-Trần [5]. Giới thiệu một bài:
|
|