Sình ca hay sấng cọ, shấng cọ, cnắng cọô là hình thức diễn xướng dân gian (đôi khi còn gọi là dân ca) của người Sán Chay ở miền Bắc Việt Nam, bao gồm các nhóm Sán Chay, Cao Lan và Sán Chí (Sán Chỉ).
Các làn điệu sình ca bao gồm hát ru, hát giao duyên đối đáp nam nữ trong các ngày hội xuân, đám cưới, mừng nhà mới, hay khi bản có khách đến chơi. Trong đời sống sinh hoạt của người Sán Chay, sình ca vẫn được lưu hành, ngoài mục đích giao lưu giải trí, còn thoả mãn nhu cầu nghệ thuật của họ. Trong những dịp lễ tết, hội hè, sình ca thường kéo dài trong nhiều đêm, những người tham gia chia làm tốp hát đối đáp với nhau theo nhiều chủ đề.[1]
Sình ca đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian, cụ thể cho các loại hình và địa điểm sau:
Sình ca của người Sán Chay còn gọi là sấng cọ, shấng cọ, hát ví Lưu Tam, chủ yếu lưu hành ở các huyện Phú Lương, Đồng Hỷ, Đại Từ của tỉnh Thái Nguyên. Những người tham gia hát sình ca phải là nam nữ chưa kết hôn, không cùng huyết thống, những người có gia đình muốn tham gia thì chỉ hát vui trong ngày hội xuân, chúc tết hay trong đám cưới. Người Sán Chay có thể hát sình ca trong nhà, hát ngoài đường, hát ở ven rừng, vừa đi vừa hát, hát ngoài đồng hay hát ở chợ... Sình ca là hình thức hát giao duyên nam nữ, nhưng là cuộc hát tự do, tức hứng khi họ gặp nhau. Nội dung của câu hát thường để thăm dò, mời chào và giới thiệu về quê hương, làng bản. Có thể nói hát giao duyên là môi trường tìm hiểu bạn tình của các chàng trai, cô gái đến tuổi cập kê.[1]
Sình ca hay sịnh ca Cao Lan hay Dân ca Cao Lan là loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian của người Cao Lan ở một số địa phương thuộc tỉnh Bắc Giang, Tuyên Quang... Sình ca Cao Lan không chỉ là những bài hát giao duyên của trai gái, mà còn là những bài hát ca ngợi sản xuất, hát "phụng" Thổ công và Thần Nông, hát mừng nhà mới, hát ru con, hát đố, hát ghẹo... Qua đó, người Cao Lan gửi gắm những tâm tư, tình cảm với nhau, những ước mơ, nguyện vọng của người lao động với thiên nhiên và thần linh...[5]
Phần lời của dân ca Cao Lan thường là những bài thơ theo thể thất ngôn tứ tuyệt (bốn câu thành một bài, mỗi câu 7 chữ). Một số trường hợp câu thứ nhất chỉ có 3 hay 4 chữ, nên 4 câu chỉ có 24 đến 25 chữ, khi đó người hát phải dùng lời láy để ngân nga. Bố cục của một cụm ca thường gồm hai bài, đôi khi chỉ có một bài hoặc nhiều bài. Tuy vậy, trong mỗi cụm ca thường có phần đầu giống nhau, diễn tả về một sự việc, câu hỏi, lời chào, còn phần giữa và phần kết lại có nội dung khác nhau.[5]
Dân ca Cao Lan bao gồm các thể loại:[5]
Dân ca Cao Lan được hát ở hầu khắp mọi nơi, như trong nhà, ngoài đường, ở chợ, trên đồi, trong rừng hay trên nương rẫy... Nếu như có bạn hát là người làng khác đến chơi thì chủ cũng hát trước, khách hát sau. Đó là những bài hát hỏi thăm gia cảnh, gia đình, quê hương... Đối với hát làm quen, giao duyên, địa điểm hát thường là một nhà nào đó trong làng. Cả chủ và khách, họ bắt đầu từ những bài hát hỏi, chào mừng lẫn nhau; khi quen hơn, họ hát đối đáp; khi đã hiểu về nhau, họ mượn những bài tả cảnh để nói với nhau về tình. Những cuộc hát như vậy thường từ chiều hôm trước tới lúc gà gáy hôm sau. Sáng hôm sau, họ tiếp tục ra đường hát và từ lúc này, người ta có thể sáng tạo thêm các bài để hát chơi, trêu ghẹo nhau, gọi là Sịnh ca ý. Khi cuộc hát đã tàn, một bên nửa muốn về, nửa muốn ở lại; một bên lại muốn níu giữ nên cứ dùng dằng kẻ ở người về, lưu luyến, nhớ nhung...[5]
Cnắng cọô hay dân ca Sán Chí là một loại hình nghệ thuật trình diễn dân gian của người Sán Chí ở một số địa phương thuộc tỉnh Bắc Giang. Đây là lối hát đối đáp nam nữ gần giống như sịnh ca của người Cao Lan, hát ví, hát trống quân, hát quan họ của người Kinh và các làn điệu sli, lượn của người Tày, Nùng, mà lời ca thường là thể thơ "thất ngôn tứ tuyệt".[6]
Dân ca Sán Chí thường được trình diễn dưới nhiều hình thức, bối cảnh và không gian khác nhau, tiêu biểu là:[6]