Bắc Giang
|
|||
---|---|---|---|
Tỉnh | |||
Tỉnh Bắc Giang | |||
Biểu trưng | |||
Biệt danh | Vương quốc vải thiều | ||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng |
| ||
Tỉnh lỵ | Thành phố Bắc Giang | ||
Trụ sở UBND | 257, Lê Lợi, thành phố Bắc Giang | ||
Phân chia hành chính | 1 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện | ||
Thành lập | 10/10/1895 | ||
Loại đô thị | II | ||
Năm công nhận | 2014 | ||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Lê Ánh Dương | ||
Hội đồng nhân dân | 75 đại biểu | ||
Chủ tịch HĐND | Lê Thị Thu Hồng | ||
Chủ tịch UBMTTQ | Trần Công Thắng | ||
Chánh án TAND | Thân Văn Quang | ||
Viện trưởng VKSND | Nguyễn Xuân Hùng | ||
Bí thư Tỉnh ủy | Dương Văn Thái | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: 21°16′29″B 106°12′06″Đ / 21,274838°B 106,201583°Đ | |||
| |||
Diện tích | 3.895,89 km²[1][2] | ||
Dân số (2023) | |||
Tổng cộng | 1.901.925 người[3] | ||
Thành thị | 456.462 người (24%)[4] | ||
Nông thôn | 1.445.463 người (76%)[5] | ||
Mật độ | 488 người/km²[6] | ||
Dân tộc | Kinh, Nùng, Sán Chay, Hoa, Tày... | ||
Kinh tế (2023) | |||
GRDP | 181.900 tỷ đồng ( 7,6 tỷ USD ) xếp hạng 12/63 | ||
GRDP đầu người | 97.37 triệu đồng (3.950 USD) | ||
Khác | |||
Mã địa lý | VN-54 | ||
Mã hành chính | 24[7] | ||
Mã bưu chính | 23xxxx | ||
Mã điện thoại | 204 | ||
Biển số xe | 98 | ||
Website | bacgiang | ||
Bắc Giang là một tỉnh trung du thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Đây là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Bắc Giang chiếm phần lớn diện tích của vùng Kinh Bắc xưa và có nền văn hoá phong phú, đặc trưng của Kinh Bắc, là một trong những cái nôi của Dân ca Quan họ với 23 làng quan họ cổ được UNESCO công nhận. Tỉnh lỵ là thành phố Bắc Giang, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 50 km.
Năm 2023, dân số của Bắc Giang ước đạt 1,901 triệu người, là tỉnh đông dân nhất và có quy mô kinh tế đứng đầu vùng Trung du và miền núi phía Bắc. Bắc Giang là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 11 về số dân, xếp thứ 13/63 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP)[10] .Ước tính 2023 GRDP đạt gần 181.900 tỉ đồng xếp hạng 11/63 (GRDP bình quân đầu người đạt 3.950 USD). Năm 2023 Bắc Giang có tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 13,45 % là địa phuơng có mức tăng trưởng cao nhất cả nước[11]
Bắc Giang thuộc khu vực Đông Bắc Việt Nam, nằm trên tuyến Hành lang kinh tế Lạng Sơn - Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài (thuộc Hành lang xuyên Á Nam Ninh - Singapore), tiếp giáp với Thủ đô Hà Nội và các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Thái Nguyên; liền kề “Tam giác kinh tế phát triển” Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Bắc Giang có diện tích tự nhiên 3.825,75 km², chiếm 1,2% diện tích tự nhiên của Việt Nam. Theo tài liệu năm 2000, trong tổng diện tích tự nhiên của Bắc Giang, đất nông nghiệp chiếm 32,4%; đất lâm nghiệp có rừng chiếm 28,9%; còn lại là đồi núi, sông suối chưa sử dụng và các loại đất khác.
Bắc Giang có địa hình trung du và là vùng chuyển tiếp giữa vùng núi phía bắc với châu thổ sông Hồng ở phía nam. Tuy phần lớn diện tích tự nhiên của tỉnh là núi đồi nhưng nhìn chung địa hình không bị chia cắt nhiều. Phía bắc và phía đông nam của tỉnh là vùng rừng núi cao từ 300m - 900 m. Vùng đồi núi thấp và đồng bằng trung du nằm kẹp giữa hai dãy núi hình cánh cung là cánh cung Đông Triều phía ở phía đông nam và và cánh cung Bắc Sơn ở phía tây - bắc. Cánh cung Đông Triều với dãy núi Yên Tử, cao trung bình 300–900 m so với mặt biển, trong đó đỉnh cao nhất là 1.068 m. Tại vùng núi phía đông bắc tỉnh, giáp với Quảng Ninh có khu rừng nguyên sinh Khe Rỗ rộng 7153 ha với hệ động vật và thực vật phong phú, bao gồm 236 loài cây thân gỗ, 255 loài cây dược liệu, 37 loài thú, 73 loài chim và 18 loài bò sát.
Trên địa bàn Bắc Giang có 374 km sông suối, trong đó ba sông lớn là sông Lục Nam, sông Thương và sông Cầu. Sông Lục Nam chảy qua vùng núi đá vôi nên quanh năm nước trong xanh. Sông Thương bắt nguồn từ hai vùng có địa hình và địa chất khác nhau nên nước chảy đôi dòng: bên đục, bên trong.
Ngoài sông suối, Bắc Giang còn có nhiều hồ, đầm, trong đó có hồ Cấm Sơn và Khuôn Thần. Hồ Cấm Sơn nằm ở khu vực giáp tỉnh Lạng Sơn, dài 30 km, nơi rộng nhất 7 km và chỗ hẹp nhất 200m. Hồ Cấm Sơn có diện tích mặt nước 2.600 ha, vào mùa mưa có thể lên tới 3.000 ha. Hồ Khuôn Thần có diện tích mặt nước 240 ha và lòng hồ có 5 đồi đảo được phủ kín bởi rừng thông 20 tuổi. Người ta có thể dạo chơi trên hồ Khuôn Thần bằng thuyền đạp chân hoặc thuyền gắn máy, vừa cùng người Sán Chỉ, Cao Lan, Nùng bản địa hát soong hao, vừa thưởng thức những sản phẩm độc đáo của địa phương như hạt dẻ, mật ong và rượu tắc kè.
Theo điều tra dân số tính đến 0h ngày 01 tháng 8 năm 2023[12], dân số Bắc Giang có 1.901.925 người, với mật độ dân số 488 người/km², gấp 1,5 lần mật độ dân số bình quân của cả nước. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2023 là 24%.
Tỉnh Bắc Giang là tỉnh đông dân thứ 11 cả nước và đông dân nhất vùng trung du và miền núi phía Bắc với gần 1,91 triệu dân.
Trên địa bàn Bắc Giang có 6 dân tộc cùng sinh sống, trong đó đông nhất là người Kinh, chiếm 88,1% dân số toàn tỉnh, tiếp đến là người Nùng chiếm 4,5%; người Tày 2,6%; người Sán Chay và người Sán Dìu, mỗi dân tộc 1,6%; người Hoa 1,2%; người Dao 0,5%. Tỷ lệ nam giới chiếm khoảng 49,95% dân số, nữ giới khoảng 50,05% dân số. Số người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 62,15% dân số, trong đó lao động được đào tạo nghề chiếm 28%; số hộ nghèo chiếm 7.2%.
Hiện nay, Bắc Giang có hai tôn giáo chính là Công giáo và Phật giáo, trong đó Công giáo có 27.000 giáo dân, chiếm 1,7% dân số của tỉnh, cư trú ở 68 xã, phường, thị trấn; Phật giáo có 176.000 tín đồ, chiếm 11% dân số toàn tỉnh. Chức sắc Phật giáo ở tỉnh có 112 tăng ni trụ trì ở 105 ngôi chùa; trên địa bàn tỉnh có 2 trung tâm Phật giáo là chùa Vĩnh Nghiêm, huyện Yên Dũng thuộc thiền phái Trúc lâm và Chùa Bổ Đà, Thị xã Việt Yên thuộc thiền phái Lâm tế. Ngoài hai tôn giáo chính là Công giáo và Phật giáo, hiện nay toàn tỉnh Bắc Giang có 1.600 ngôi đình, đền, nghè, miếu thờ thần linh, thành hoàng, thánh mẫu... thuộc hệ thống tín ngưỡng dân gian, mỗi năm có hơn 500 lễ hội diễn ra thường niên. Năm qua, các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận pháp nhân trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã tăng cường hoạt động, củng cố đức tin, bồi dưỡng tập huấn chức sắc, xây sửa mới cơ sở thờ tự, nội dung hoạt động đã bám sát vào giáo luật, hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo và quy định của pháp luật; đồng bào theo các tôn giáo trên địa bàn tỉnh đã tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động...[13]
Thời vua Hùng dựng nước Văn Lang liên bộ lạc, Bắc Giang thuộc bộ Võ Ninh.
Đời Lý - Trần gọi là lộ Bắc Giang.
Đời Lê, đây là phủ Bắc Hà, năm 1822 đổi là phủ Thiên Phúc, đến đời Tự Đức là phủ Đa Phúc.
Từ ngày 5 tháng 11 năm 1889 đến ngày 9 tháng 9 năm 1891 đã tồn tại tỉnh Lục Nam. Tỉnh Lục Nam gồm các huyện Bảo Lộc, Phượng Nhỡn, Lục Nam, Hữu Lũng (tách từ phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh, ở bên tả ngạn sông Thương) và huyện Yên Bái (tách từ tỉnh Lạng Sơn). Năm 1891 sau khi trả hai huyện Bảo Lộc và Phượng Nhỡn cho tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Lục Nam bị xóa bỏ để nhập vào Đạo Quan binh I.
Tỉnh Bắc Giang được thành lập ngày 10 tháng 10 năm 1895, tách từ tỉnh Bắc Ninh, bao gồm phủ Lạng Giang, phủ Đa Phúc và các huyện Kim Anh, Yên Dũng, Phượng Nhỡn, Việt Yên, Hiệp Hòa, Yên Thế và một số tổng nằm ở phía nam sông Lục Nam. Tỉnh lỵ là Phủ Lạng Thương (nay là thành phố Bắc Giang), công sứ đầu tiên là E. Quennec (1895 - 1910). Năm 1896, phủ Đa Phúc và huyện Kim Anh được trả lại cho tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1950, tỉnh Bắc Giang thuộc Liên khu Việt Bắc (1949-1956) và gồm 7 huyện: Hiệp Hoà, Lục Ngạn, Yên Thế, Lạng Giang, Việt Yên, Yên Dũng, Hữu Lũng.
Ngày 22 tháng 2 năm 1955, huyện Sơn Động từ tỉnh Quảng Yên trả về tỉnh Bắc Giang.
Ngày 1 tháng 7 năm 1956, khi thành lập Khu tự trị Việt Bắc, huyện Hữu Lũng sáp nhập vào tỉnh Lạng Sơn thuộc Khu tự trị Việt Bắc. Đồng thời, huyện Phú Bình thuộc tỉnh Thái Nguyên được nhập vào tỉnh Bắc Giang, nhưng đến ngày 15 tháng 6 năm 1957 lại trả về tỉnh Thái Nguyên.
Ngày 21 tháng 1 năm 1957, thành lập huyện Lục Nam từ một số xã của các huyện Yên Dũng, Lạng Giang, Lục Ngạn, Sơn Động và 3 xã của huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Ngày 6 tháng 11 năm 1957, chia huyện Yên Thế thành 2 huyện: Yên Thế và Tân Yên.
Năm 1959, đổi tên thị xã Phủ Lạng Thương thành thị xã Bắc Giang.
Ngày 27 tháng 10 năm 1962, Bắc Giang nhập với Bắc Ninh thành tỉnh Hà Bắc và đến ngày 1 tháng 1 năm 1997 lại tách ra như cũ. Khi tách ra, tỉnh Bắc Giang có tỉnh lị là thị xã Bắc Giang và 9 huyện: Hiệp Hòa, Lạng Giang, Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Động, Tân Yên, Việt Yên, Yên Dũng, Yên Thế.
Ngày 03 tháng 5 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 130-HĐBT [14] về điều chỉnh địa giới các huyện Tiên Sơn, Quế Võ, Việt Yên, Lạng Giang và hai thị xã Bắc Ninh, Bắc Giang thuộc tỉnh Hà Bắc.
Ngày 7 tháng 6 năm 2005, chuyển thị xã Bắc Giang thành thành phố Bắc Giang.[15]
Ngày 1 tháng 2 năm 2024, chuyển huyện Việt Yên thành thị xã Việt Yên.[16]
Tỉnh Bắc Giang có 1 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện như hiện nay.
Văn hóa Bắc Giang có các điểm đặc trưng sau:
Người dân Bắc Giang tự hào là cái nôi của quan họ cổ với 23 làng ven sông Cầu, tồn tại như một sự kết duyên song song với quan họ ở Bắc Ninh. Đất quan họ Bắc Giang còn là nơi có tục kết chạ từ lâu đời đến nay vẫn tồn tại trong cuộc sống cộng đồng, có đóng góp tích cực làm đẹp thêm đời sống xã hội.
(1) Di tích quốc gia đặc biệt chùa Vĩnh Nghiêm (huyện Yên Dũng) - chốn tổ thiền phái Trúc Lâm do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập thế kỷ XIII, nơi lưu giữ kho Mộc bản với 3.050 bản đã được vinh danh là Di sản Tư liệu ký ức thế giới khu vực Châu Á - Thái Bình Dương;
(2) Di tích quốc gia đặc biệt chùa Bổ Đà (thị xã Việt Yên) - ngôi chùa có vườn tháp lớn nhất Việt Nam và bảo vật quốc gia Bộ mộc bản kinh phật khắc trên gỗ thị cổ nhất;
(3) Di tích quốc gia đặc biệt Những điểm khởi nghĩa Yên Thế ghi dấu cuộc khởi nghĩa của người anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám với 41 điểm di tích (cụm di tích) thuộc các huyện, thị Yên Thế, Tân Yên, Việt Yên, Yên Dũng;
(4) Di tích quốc gia đặc biệt Địa điểm Chiến thắng Xương Giang ghi nhớ chiến công chói lọi trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc gắn với Thái tổ Cao Hoàng đế Lê Lợi, nghĩa quân Lam Sơn;
(5) Di tích quốc gia đặc biệt An toàn khu II Hiệp Hòa ( Huyện Hiệp Hòa )
(6) Chùa Quang Phúc, Đình Tiên Lục (huyện Lạng Giang) có cây Dã Hương nghìn năm tuổi;
(7) Khu lưu niệm Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân (Khu 12);
(8) Chùa Am Vãi (huyện Lục Ngạn) nằm trên sườn Đông Bắc đỉnh núi Am Ni với các di tích gốc thời Lý - Trần, được đặt tại khu vực có cảnh quan đẹp, linh thiêng, nằm trong hệ thống di tích Phật giáo Thiền tông Trúc Lâm Yên Tử;
(9) Đình Lỗ Hạnh được mệnh danh là đệ nhất kinh Bắc thế kỷ 16;
(10) Lăng Dinh Hương là quần thể kiến trúc điêu khắc đá độc đáo thời Hậu Lê,...
Đặc biệt Bắc Giang còn là nơi gắn liền với Thiền phái Trúc Lâm do Phật Hoàng Trần Nhân Tông sáng lập với hệ thống các di tích như Chùa Vĩnh Nghiêm, Am Vãi, một số di tích đang được khảo cổ và định hướng phục dựng thời gian tới như chùa Hòn Tháp, Mã Yên, Bát Nhã, Hồ Bấc, Thanh Mai...
Nghệ thuật trình diễn dân gian của Bắc Giang rất đa dạng và phong phú như Quan họ, Ca trù, dân ca Cao Lan, dân ca Sán Chí,… là những loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc. Trong đó có 2 di sản được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể: Quan họ được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại và Ca trù được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.
Bắc Giang là vùng đất cổ giàu truyền thống văn hóa với hơn 500 lễ hội truyền thống được tổ chức hàng năm, trong đó có những lễ hội được công nhận là di sản phi vật thể Quốc gia như lễ hội Thổ Hà, lễ hội Yên Thế, lễ hội chùa Vĩnh Nghiêm. Hầu hết các lễ hội trên địa bàn tỉnh còn mang đậm nét văn hóa truyền thống với nhiều trò chơi dân gian, các hoạt động thể thao ý nghĩa (đấu võ, vật, vật cầu nước…), kết hợp biểu diễn nghệ thuật dân gian như hát Quan họ, hát Ca trù, dân ca Sán Chí, hát Soong hao, hát Then,…
Bắc Giang cũng là nơi còn nhiều làng nghề truyền thống được lưu giữ, bảo tồn và phát triển đến ngày nay với các ngành nghề đa dạng và phong phú như nấu rượu làng Vân, Mây tre đan Tăng Tiến, làng bánh đa, kẹo lạc Thổ Hà (thị xã Việt Yên); gốm làng Ngòi (huyện Yên Dũng); làng mỳ Chũ (huyện Lục Ngạn); làng bánh đa Kế, làng bún Đa Mai (TP Bắc Giang),…
Tỉnh Bắc Giang có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện với 209 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 19 phường, 15 thị trấn và 175 xã.[17]
Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Bắc Giang | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
|
Nằm trên tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung Quốc) - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng, liền kề vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, Bắc Giang rất thuận lợi trong phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa với các nước trong khu vực.
Bắc Giang đã quy hoạch và triển khai 6 khu công nghiệp diện tích 1462 ha, 38 cụm công nghiệp với tổng diện tích hơn 1208 ha, trong đó có 5 khu công nghiệp đang thu hút các nhà đầu tư thứ cấp. Mới đây vào ngày 23/2/2021 chính phủ cho phép thành lập thêm 3 KCN ở Yên Dũng, Lục Nam,Lạng Giang và mở rộng 3 KCN Quang Châu, Hòa Phú, Việt Hàn với tổng diện tích hơn 1.100 ha [18]
Các khu công nghiệp hầu hết tập trung ở các huyện, thị Việt Yên, Yên Dũng, Hiệp Hòa...Được quy hoạch liền kề nhau, nằm dọc theo đường quốc lộ 1A Hà Nội - Lạng Sơn, gần với các đô thị lớn, thuận lợi cả về đường bộ, đường sông, đường sắt và đường hàng không và các cảng sông, cảng biển. Cách thủ đô Hà Nội khoảng 40–50 km, Sân bay quốc tế Nội Bài 50 km; Cảng Hải Phòng khoảng 110 km và cách cửa khẩu Hữu Nghị Quan 120 km, có hệ thống hạ tầng tương đối hoàn chỉnh; thuận lợi cả về hệ thống cung cấp điện, nước, bưu chính viễn thông.
Các khu công nghiệp đó là:
Ngoài các khu công nghiệp trên, hiện nay tỉnh Bắc Giang dự kiến quy hoạch một số khu, cụm công nghiệp khác, tập trung ở các huyện Yên Dũng, Việt Yên, Hiệp Hoà và Lạng Giang... Mục tiêu đến 2030 tỉnh có 27 KCN điện tích khoảng 9000 ha và 69 CCN diện tích gần 3000 ha.[19]
Bắc Giang đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; ưu tiên đầu tư kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp; quan tâm đào tạo[20], nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp và đặc biệt chú trọng cải cách thủ tục hành chính theo hướng đảm bảo công khai, minh bạch với cơ chế "một cửa liên thông", nhà đầu tư chỉ cần đến một địa chỉ là Ban quản lý các Khu công nghiệp hoặc Sở Kế hoạch và Đầu tư là được cấp giấy chứng nhận đầu tư, mã số thuế và con dấu.[18] Tính đến tháng 1/2021 Bắc Giang đã thu hút được 1304 dự án đầu tư trong nước với số vốn đăng ký 91.505 tỷ đồng và 472 dự án FDI với số vốn đăng ký hơn 7,7 tỷ USD. Bắc Giang đang trở thành một trong những trung tâm công nghiệp lớn của miền Bắc và cả nước.
Bắc Giang có vị trí địa lý hết sức thuận lợi, nằm trong vùng Thủ đô Hà Nội, trên tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung Quốc) - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, cách trung tâm Thủ đô Hà Nội và Sân bay quốc tế Nội Bài khoảng 50 km, cách cửa khẩu Hữu Nghị (Lạng Sơn) 110 km và cách Cảng Hải Phòng 140 km. Bắc Giang có diện tích tự nhiên xấp xỉ 3.900 km2, trong đó trên 75% diện tích là đất nông nghiệp, đảm bảo quỹ đất rất lớn cho phát triển công nghiệp, đô thị và dịch vụ trong tương lai. Năm 2016, tuyến cao tốc Hà Nội - Bắc Giang được hoàn thành, đáp ứng niềm mong mỏi bấy lâu của người dân Bắc Giang, thế nhưng, cùng với niềm vui mừng khôn xiết là nỗi lo thường trực khi đường đã mở nhưng cầu chưa thông. Bởi trên tuyến cao tốc dài 45 km có 2 cây cầu lớn là cầu Như Nguyệt - nối 2 tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và cầu Xương Giang, tuy nhiên cả 2 cây cầu lại tạo ra những “nút thắt cổ chai”, gây ra tình trạng ùn tắc trên con đường huyết mạch hướng ra Thủ đô. Trong tình thế đó, với quyết tâm giải quyết ùn tắc, tháo gỡ điểm nghẽn, tỉnh Bắc Giang đã chủ động có văn bản xin ý kiến Chính phủ về việc đầu tư xây dựng mở rộng cầu Như Nguyệt bằng nguồn vốn ngân sách của địa phương. Trước đề nghị đầy táo bạo của tỉnh Bắc Giang, tháng 10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản đồng ý về nguyên tắc giao UBND tỉnh Bắc Giang thực hiện đầu tư xây dựng mở rộng cầu Như Nguyệt. Sau hơn một năm triển khai với nhiều khó khăn, thách thức, được sự giúp đỡ, ủng hộ của Chính phủ, các Bộ, ngành, cơ quan Trung ương cùng sự quyết tâm cao của lãnh đạo hai tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, và sự cố gắng, nỗ lực không mệt mỏi trong chỉ đạo và triển khai thi công của chủ đầu tư và các nhà thầu thi công, cầu Như Nguyệt đã chính thức được khánh thành và đưa vào sử dụng vào ngày 16/6/2023, đảm bảo an toàn, chất lượng, kỹ thuật, mỹ thuật và tiến độ. Tại buổi lễ khánh thành cầu Như Nguyệt, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã bày tỏ sự vui mừng khi điểm nghẽn trên tuyến QL1 nối Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang và Lạng Sơn suốt nhiều năm qua đã được khai thông, mở ra những cơ hội mới, hướng tới sự liên kết vùng mạnh mẽ trong tương lai. Cùng với đó, Thủ tướng đánh giá cao tinh thần chủ động, tự lực, tự cường của tỉnh Bắc Giang trong bối cảnh nguồn vốn Trung ương còn gặp nhiều khó khăn. Điều đó đã cho thấy trách nhiệm cao của tỉnh Bắc Giang, đặc biệt trong thời điểm đại dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp. Và thực tiễn đã chứng minh, quyết sách táo bạo của tỉnh Bắc Giang đã đem lại “trái ngọt”. Con đường lên biên giới, con đường hướng tới Thủ đô đã được khai thông, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Giang nói riêng và cả nước nói chung.
Những năm gần đây, Bắc Giang luôn là địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) ấn tượng. Năm 2023, GRDP của tỉnh Bắc Giang đạt 13,45%, trở thành tỉnh dẫn đầu cả nước. Để có được kết quả đó, ngoài việc quan tâm tới cải cách các thủ tục hành chính, mở rộng cửa đón chào các nhà đầu tư, tỉnh Bắc Giang còn đặc biệt chú trọng tới việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, tăng tính liên kết vùng, đặc biệt chú trọng tới phát triển các công trình giao thông trọng điểm, trong đó nổi bật là đầu tư xây dựng hàng loạt cây cầu nhằm tăng tính kết nối như: 'Cầu Đồng Việt, cầu Hà Bắc 1, Hà Bắc 2, cầu Hòa Sơn, cầu Xuân Cẩm - Bắc Phú, cầu Á Lữ. Nổi bật trong số đó phải kể tới cầu Đồng Việt, đây là cây cầu dây văng đầu tiên và lớn nhất của tỉnh Bắc Giang. Dự án cầu Đồng Việt được khởi công xây dựng vào ngày 24/6/2022, đây được coi là công trình giao thông trọng điểm của tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn 2022 - 2025. Dự án có tổng mức đầu tư gần 1.500 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách tỉnh và trái phiếu chính quyền địa phương.
Công trình có tổng chiều dài 8,59 km, trong đó phần đường dẫn lên cầu hai bên khoảng 7,86 km. Cầu Đồng Việt có chiều dài thiết kế 730 m, kết cấu bê tông cốt thép và bê tông cốt thép dự ứng lực, tải trọng thiết kế HL93, mặt cầu rộng 22,5 m; mố, trụ cầu bằng bê tông cốt thép đặt trên móng cọc khoan nhồi. Xác định đây là công trình giao thông trọng điểm của tỉnh Bắc Giang, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy giao thông hàng hóa, phát triển du lịch giữa Bắc Giang và các tỉnh Hải Dương, Quảng Ninh cho nên ngay từ khi triển khai, chủ đầu tư và nhà thầu thi công đã nỗ lực đảm bảo tiến độ, chất lượng công trình. Có mặt tại công trường cầu Đồng Việt vào những ngày đầu năm 2024, mặc dù thời tiết có nhiều diễn biến bất thường nhưng không khí làm việc tại đây vẫn rất hăng say và sôi nổi, tất cả đều hướng tới mục tiêu chung là sớm hoàn thành và đưa công trình vào sử dụng. Trao đổi với phóng viên, ông Trần Ngọc Tú - Giám đốc điều hành liên danh dự án cho biết, để đảm bảo tiến độ của dự án, nhà thầu đã huy động khoảng 150 công nhân thi công liên tục 24/24, chia làm 3 ca. Mặc dù trong quá trình thi công còn gặp nhiều khó khăn liên quan tới công tác giải phóng mặt bằng, khan hiếm nguồn nguyên liệu san lấp, thời tiết… nhưng phía nhà thầu đã chủ động phối hợp với chủ đầu tư, UBND huyện Yên Dũng nhằm kịp thời tháo gỡ; đồng thời chủ động, linh hoạt trong việc triển khai công việc để không bị gián đoạn công tác thi công. Theo dự kiến, cầu Đồng Việt sẽ hợp long vào cuối tháng 8/2024 và hoàn thành, đưa vào khai thác cuối tháng 9/2024, vượt tiến độ 3 tháng theo đúng cam kết với chủ đầu tư. Bên cạnh cầu Đồng Việt, đến nay cầu Hòa Sơn kết nối với tỉnh Thái Nguyên đã cơ bản hoàn thành và sẽ thông xe kỹ thuật trước Tết Nguyên đán; cầu Xuân Cẩm - Bắc Phú kết nối với TP Hà Nội cũng đang được thi công tích cực phần đường dẫn lên cầu tại địa phận huyện Sóc Sơn, theo dự kiến cũng sẽ đưa vào khai thác trước Tết Nguyên đán. Năm Quý Mão chuẩn bị qua đi, nhường chỗ cho một năm Giáp Thìn được dự báo với nhiều khó khăn, thử thách đối với nền kinh tế. Với định hướng phát triển cụ thể, cùng sự vào cuộc quyết liệt của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Bắc Giang, tin tưởng rằng, hệ thống giao thông kết nối đa chiều sẽ tiếp tục được đầu tư mạnh mẽ, tạo thế và lực để đưa tỉnh Bắc Giang phát triển xứng tầm là cực tăng trưởng mới tại khu vực trung du vùng đồng bằng Bắc Bộ.
-Cầu Xương Giang (giai đoạn 2) hợp thông tuyến Đường cao tốc Hà Nội – Bắc Giang
-Cầu Cẩm Lý
NĂM 2021
NĂM 2022
NĂM 2023
MỤC TIÊU NĂM 2024
NĂM 2024
Danh sách đặc sản và ẩm thực ở Bắc Giang còn bao gồm nhiều món như bánh đúc Đồng Quan, khoai sọ Lục Nam, chè kho Mỹ Độ, mì gạo Châu Sơn, rượu men lá Kiên Thành, cua da Yên Dũng, rau cần Hoàng Lương, gạo thơm Yên Dũng, củ đậu Lục Nam, gỏi cá mè Lý Viên, vải thiều Lục Ngạn, mì gạo Kế và bánh đa nướng Kế.
|
|
Bắc Giang là vùng đất thuộc tứ chiếng chèo gốc, một trong những cái nôi của các làn điệu chèo cổ. Trong bảy vị tổ chèo từ thời Đinh đến thời Lý được Lương Thế Vinh chép trong Hý phường phả lục gồm Phạm Thị Trân, Đào Văn Só, Đặng Hồng Lân, Đào Hoa, Từ Đạo Hạnh, Sái Ất, Chính Vịnh Càn thì có hai vị ở chiếng chèo xứ Bắc là Đào Hoa ở lộ Bắc Giang và Sái Ất ở phủ Từ Sơn.
Bắc Giang là đất chèo có tiếng xứ Bắc. Ngoài đặc điểm chung, chèo Bắc Giang còn có nét riêng khi mang âm hưởng đậm nét của vùng trung du miền núi, từ phong cách biểu diễn đến lời ca đều khỏe khoắn và mộc mạc hơn. Những năm 80 của thế kỷ trước, khi sáng tác làn điệu chèo, các nhạc sĩ thường sử dụng chất liệu dân ca quan họ và gần đây còn khai thác dân ca dân tộc thiểu số như hát then, hát ví.[23] Bắc Giang có trên 500 lễ hội truyền thống, được coi là đất diễn cho các chiếu Chèo phát triển phong phú như: làng Đồng Quan (Yên Dũng); làng Then (Lạng Giang); làng Hoàng Mai (Việt Yên); làng Bắc Lý (Hiệp Hòa),...
Thành phố Bắc Giang có làng Đồng Quan, xã Đồng Sơn là làng có truyền thống hát chèo từ xa xưa, đến nay đội chèo có 18 người cả diễn viên và nhạc công do bà Khổng Thị Tiêu phụ trách; Đội chèo làng Đồng Nhân, xã Đồng Phúc vốn là làng chèo truyền thống, có 14 người do ông Nguyễn Khánh Dư làm đội trưởng. Làng chèo Dốc Sở xã Đồng Sơn có 13 người do ông Nguyễn Văn Dương làm đội trưởng; Làng chèo Tân Ninh xã Tư Mại, đây là làng chèo cổ, có 20 người do ông Lưu Xuân Đức phụ trách. Từ năm 2004 huyện Yên Dũng còn thành lập các câu lạc bộ chèo như: Câu lạc bộ “Chiếu chèo quê” do ông Nguyễn Văn Đán làm chủ nhiệm, CLB có 24 người tập hợp từ các xã trong huyện. CLB Đồng Tiến Đức có 50 người là hội viên, CLB thôn Đồng Nhân xã Đồng Phúc do ông Nguyễn Văn Toàn làm chủ nhiệm. Hầu hết các đội chèo và CLB đều duy trì và phát triển đội ngũ nhạc công của dàn nhạc dân tộc. Huyện Yên Dũng là nơi có những làng chèo truyền thống như: Tân Độ (xã Tân Liễu); Đồng Nhân (xã Đồng Phúc); Tân Ninh, Bắc Am (xã Tư Mại)... Từ năm 2005 đến nay, Yên Dũng đã thành lập được 6 CLB chèo, khôi phục 6 làng chèo truyền thống, thu hút hàng trăm người tham gia. Không chỉ có các CLB hoạt động ở thôn, xã, Yên Dũng còn thành lập mô hình cấp huyện với gần 20 thành viên thường xuyên hoạt động tại CLB chèo Yên Dũng.[24] Năm 2007, huyện Yên Dũng đã tổ chức Liên hoan Tiếng hát chèo lần thứ nhất. Tham gia hội diễn có 21 câu lạc bộ của 21 làng, với hàng trăm diễn viên và nhạc công không chuyên.[25]
Thị xã Việt Yên: Có các làng chèo cổ và nay còn một số đội được duy trì ở mức độ hát và dựng các tiểu phẩm mới như: Hoàng Mai (phường Nếnh); làng Mỏ Thổ (xã Minh Đức); Làng Trung Đồng (phường Vân Trung); làng Kiểu (phường Bích Động), làng Vân (xã Vân Hà)... Huyện Tân Yên: Làng Dương Lâm (xã An Dương), đội chèo xã Ngọc Châu; làng Hạ (xã Cao Thượng), riêng làng Hạ vẫn là làng chèo truyền thống, đến nay vẫn duy trì và hoạt động. Đội chèo có 30 người cả diễn viên và nhạc công do ông Trọng Nguyên làm đội trưởng. Huyện Lạng Giang: Làng An Lạc (xã Quang Thịnh) do ông Khải làm đội trưởng; làng Then (xã Thái Đào) do ông Nguyễn Văn Khoa làm đội trưởng (đội có 20 người vừa hát chèo, sử dụng nhạc cụ dân tộc, vừa có dàn nhạc viôlông); làng Liên Sơn (xã Tân Dĩnh) do bà Ngô Thị Liên 70 tuổi làm đội trưởng; và làng Chuông Vàng (xã Tân Hưng). Ở Lạng Giang còn duy trì hát chèo là chủ yếu, ít dựng các trích đoạn truyền thống. Tuy vậy còn giữ được dàn nhạc dân tộc khá phong phú.[26]
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Bắc Giang. |