Súng ngắn Makarov | |
---|---|
Loại | Súng ngắn bán tự động. |
Nơi chế tạo | Liên Xô |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1951-nay |
Sử dụng bởi | Xem Sử dụng
Liên Xô Trung Quốc Việt Nam Lào Cộng hòa Nhân dân Campuchia (Tịch thu từ Khmer Đỏ) Campuchia Afghanistan Cuba Ukraina |
Trận | Chiến tranh Afghanistan (1978–1992) Chiến tranh Việt Nam Nội chiến Syria Nội chiến Libya Chiến tranh Chechnya lần thứ nhất Chiến tranh Chechnya lần thứ hai |
Lược sử chế tạo | |
Người thiết kế | Nikolai Fyodorovich Makarov |
Năm thiết kế | 1948 |
Nhà sản xuất | Nhà máy cơ khí Izhevsk (Nga)
Ernst Thälmann/Simson (Suhl) (Đức) Công nghiệp Bắc Phương (Trung Quốc) Nhà Máy Z111 (Việt Nam) |
Giai đoạn sản xuất | 1948 |
Các biến thể | ... |
Thông số | |
Khối lượng | 730 g (26 oz) |
Chiều dài | 161,5 mm (6,34 in) |
Độ dài nòng | 93,5 mm (3,83 in) |
Kíp chiến đấu | cá nhân |
Đạn | 9x18mm Makarov |
Cơ cấu hoạt động | Nạp đạn bằng phản lực bắn |
Sơ tốc đầu nòng | 315 m/s |
Tầm bắn hiệu quả | 40 m (54,7 yd) |
Chế độ nạp | Băng đạn 8 viên (có thể nạp từ 10-12 viên ở các phiên bản súng ngắn Makarov đặc biệt khác của Nga) |
Súng ngắn Makarov hay còn được gọi là Pistolet Makarova ở phương Tây, K59 ở Trung Quốc và Việt Nam (từ tên Type 59 ở Trung Quốc) là một loại súng ngắn bán tự động do Makarov thiết kế vào cuối thập niên 1940, sử dụng loại đạn 9×18mm Makarov. Makarov có uy lực vừa phải, tốc độ bắn nhanh, nhỏ gọn, dễ sử dụng.[1] Thiết kế của loại súng này chịu ảnh hưởng lớn từ khẩu Walther PP của Đức năm 1935.[2]
Đây là súng ngắn tiêu chuẩn của quân đội Liên Xô trong thời kỳ 1951-1991 và còn là súng ngắn tiêu chuẩn của nhiều quân đội các nước xã hội chủ nghĩa cũ. Nó được sản xuất tại Liên Xô, Bulgaria, Đông Đức và Trung Quốc. Súng được sử dụng nhiều trong Chiến tranh Việt Nam.
Việc chế tạo súng ngắn PM (Pistol Makarov) là kết quả của cuộc cạnh tranh cho sự phát triển của một khẩu súng ngắn dành cho sĩ quan của Quân đội Xô viết. PM đã cạnh tranh thành công vì kích thước nhỏ, gọn, trọng lượng nhẹ, hộp đạn 8 viên (9 × 18 mm Makarov). Đạn 9 × 18 mm có sức xuyên phá mạnh ở tầm gần. Đường kính rãnh dương của nòng súng là 9 mm và đường kính rãnh âm là 9,25 mm, tương ứng với đường kính thật của đầu đạn là 9,25 mm.[1]
PM chiến thắng chung cuộc còn vì cấu tạo đơn giản, ít bộ phận chuyển động, kinh tế, dễ chế tạo, độ chính xác cao, sử dụng tiện lợi, dễ bảo quản, sửa chữa và điều chỉnh. Loại súng này được trang bị phổ biến trong quân đội và cảnh sát cho đến khi xảy ra sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991. Cho đến nay, PM tiếp tục được sử dụng hiện nay ở nhiều nước trong phe xã hội chủ nghĩa cũ vì độ tin cậy và cấu tạo đơn giản của nó. Các phiên bản của PM vẫn tiếp tục được sản xuất tại Nga, Bulgaria, Trung Quốc. Ở Tiệp Khắc có phiên bản CZ-83 và ở Ba Lan có phiên bản P-64-12 với hộp đạn 12 viên.[3]
Hiện nay, quân đội Nga đang có kế hoạch trang bị súng ngắn Yarygin (Ярыгина), PMM... dần thay thế cho "Makarov" nhưng tại thời điểm này PM vẫn tiếp tục được sử dụng rộng rãi. Riêng Tiệp Khắc đã hoàn toàn thay thế PM bằng CZ-83 có cấu tạo tương tự PM nhưng với hộp đạn 12 viên và cơ chế vận hành búa đập bằng lò xo cuốn thay cho lò xo lá.[3]
Chất lượng súng ngắn ở Nga đã là một vấn đề trong nhiều thập kỷ khi họ vẫn sử dụng những thiết kế đã 70 năm tuổi[4]. Một giảng viên đặc nhiệm FSB Nga cho biết một khẩu súng ngắn Makarov hoặc Yarygin tiêu chuẩn có giá khoảng 300 USD và có thể bắn 4.500 viên đạn cho đến khi một số bộ phận của nó bị hỏng trong khi một khẩu Glock 17 sẽ có giá khoảng 2.000 USD (cao hơn gấp 4 lần so với Mỹ và ở châu Âu do mức thuế để mang Glock 17 đến Nga) và có thể bắn tới 300.000 viên mà vẫn đảm bảo tin cậy. Khoảng cách giữa những khẩu súng lục này là rất lớn.[5]