Cường độ tuyệt chủng ở đại dương theo thời gian. Biểu đồ thể hiện phần trăm (số liệu không chắc chắn) các chi động vật biển đã tuyệt chủng trong một khoảng thời gian bất kỳ. Biểu đồ này không phản ảnh tất cả các loài sinh vật biển đã từng sống, mà chỉ tính những chi bị hóa thạch. Xem thêm trong Sự kiện tuyệt chủng. (nguồn và thông tin hình)
Sự kiện tuyệt chủng Tam Điệp – Jura đánh dấu ranh giới giữa kỷ Tam Điệp và kỷ Jura, cách đây 199,6 triệu năm,[1] và là một trong những sự kiện tuyệt chủng lớn trong liên đại Hiển sinh, và có tác động sâu sắc đến đời sống sinh vật trên đất liền và trong các đại dương. Trong đại dương toàn bộ lớp conodont[2] và 20% các họ sống đã biến mất. Trên đất liền tất cả các loài Crurotarsi lớn (archosaur không phải khủng long) khác với cá sấu, một số therapsida còn lại, và phần lớn các loài lưỡng cư đã biến mất.
Ít nhất có phân nửa số loài đã sống trên Trái Đất mà chúng ta biết được đến nay đã bị tuyệt chủng. Sự kiện này đã để lại những hốc sinh thái trên đất liền, có thể là yếu tố cho phép khủng long chiếm vị trí thống trị trong kỷ Jura. Sự kiện này đã diễn ra kéo dài ít nhất 10.000 năm và chỉ ngay trước khi Pangaea bắt đầu tan rã. Ở khu vực Tübingen (Đức), người ta phát hiệu một nghĩa địa xương Trias-Jura, đây là yếu tố đặc trưng cho ranh giới này.[3]
Phân tích thống kê về việc mất đi các loài trong biển vào lúc này chỉ ra rằng sự suy giảm đa dạng sinh học do suy giảm về biệt hóa hơn là sự gia tăng tuyệt chủng.[4]
Đã có những giả thuyết đưa ra để giải thích về nguyên nhân xảy ra sự kiệt tuyệt chủng này, nhưng tất cả vẫn còn là những thách thức chưa có lời giải:
Đó là sự biến đổi khí hậu từ từ, sự dao động mực nước biển hoặc ảnh hưởng của quá trình axít hóa đại dương[6] trong suốt Trias muộn đạt đến đỉnh điểm. Tuy nhiên, giải thích này không lý giải được sự tuyệt chủng một cách đột ngột trong đại dương.
Tác động của thiên thạch/tiểu hành tinh, nhưng cho đến nay không có các hố va chạm nào có kích thước đủ lớn đã được xác định tương ứng với ranh giới Trias-Jura. Hố Rochechouart bị mài mòn ở Pháp được định tuổi gần đây nhất là 201 ±2 triệu nămo,[7] nhưng với bề rộng 25 km (có thể ban đầu đạt 50 km), xem ra vẫn quá nhỏ.[8]
^T.M. Quan, B. van de Schootbrugge, M.P. Field, "Nitrogen isotope and trace metal analyses from the Mingolsheim core (Germany): Evidence for redox variations across the Triassic-Jurassic boundary", Global Biogeochemical Cycles, 22 2008: "a series of events resulting in a long period of stratification, deep-water hypoxia, and denitrification in this region of the Tethys Ocean basin"; M. Hautmann, M.J. Benton, A. Toma, "Catastrophic ocean acidification at the Triassic-Jurassic boundary", Neues Jahrbuch für Geologie und Paläontologie249.1, July 2008:119-127.
^Tanner, L. H.; J. F. Hubert; và đồng nghiệp (ngày 7 tháng 6 năm 2001). “Stability of atmospheric CO2 levels across the Triassic/Jurassic boundary”. Nature. 411 (6838): 675–677. doi:10.1038/35079548. PMID11395765.
McElwain, J. C. (ngày 27 tháng 8 năm 1999). D. J. Beerling, F. I. Woodward. “Fossil Plants and Global Warming at the Triassic-Jurassic Boundary”. Science. 285 (5432): 1386–1390. doi:10.1126/science.285.5432.1386. PMID10464094.
Deenen, M.H.L. (2010). M. Ruhl, N.R. Bonis, W. Krijgsman, W. Kuerscher, M. Reitsma, M.J. van Bergen. “A new chronology for the end-Triassic mass extinction”. EPSL.
Entoma Vasilissa Zeta (エ ン ト マ ・ ヴ ァ シ リ ッ サ ・ ゼ ー タ, εντομα ・ βασιλισσα ・ ζ) là một chiến hầu người nhện và là thành viên của "Pleiades Six Stars," đội chiến hầu của Great Tomb of Nazarick. Cô ấy được tạo ra bởi Genjiro.