Symphorus nematophorus

Symphorus nematophorus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Lutjaniformes
Họ (familia)Lutjanidae
Chi (genus)Symphorus
Günther, 1872
Loài (species)S. nematophorus
Danh pháp hai phần
Symphorus nematophorus
(Bleeker, 1860)
Danh pháp đồng nghĩa
Danh sách
    • Mesoprion nematophorus Bleeker, 1860
    • Symphorus taeniolatus Günther, 1872
    • Paradicichthys venenatus Whitley, 1930
    • Symphorus forsteri Fowler, 1931

Symphorus nematophorus là loài cá biển duy nhất thuộc chi Symphorus trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1860.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Không rõ từ nguyên của chi. Theo các nhà ngư học hiện tại, từ này có thể được ghép từ hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: súmphusis (σύμφῠσῐς; “cùng nhau phát triển”) và phérō (φέρω, “mang theo”), hàm ý đề cập đến các gai và tia mềm phát triển tạo thành một vây lưng liên tục. Còn từ định danh được ghép từ nêmatos (νῆματος; “sợi chỉ”) và phérō, đề cập đến một (hoặc nhiều) tia mềm ở trước vươn dài thành sợi ở cá con.[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ biển Andaman, S. nematophorus được phân bố trải dài về phía đông đến FijiTonga, mở rộng ở phần lớn khu vực Đông Nam Á, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), xa về phía nam đến bờ bắc ÚcNouvelle-Calédonie.[1][3] S. nematophorus cũng được ghi nhận tại vùng biển Việt Nam.[4][5]

S. nematophorus sống tập trung trên các rạn san hô ở độ sâu từ ít nhất là 20 đến 100 m.[6]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở S. nematophorus là 100 cm.[6] Cá trưởng thành màu nâu xám hoặc đỏ nhạt với các vạch sọc dọc màu đậm. Cá con màu nâu cam nhạt với các sọc ngang màu xanh óng ở hai bên lườn. Vây lưng có các tia trước vươn dài thành sợi.

Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 14–18; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–11; Số tia vây ở vây ngực: 16; Số vảy đường bên: 53–59.[7]

Sinh học

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của S. nematophorus là các loài cá nhỏ hơn.[6] S. nematophorus có thể sống đến 36 năm.[8]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

S. nematophorus được đánh bắt trên khắp các vùng biển thuộc phạm vi của chúng. Do có thể gây ra ngộ độc ciguatera mà loài cá này đã bị cấm bán ở một số nước như ÚcVanuatu. S. nematophorus được đánh giá là một trong những loài cá độc nhất ở Vanuatu.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Russell, B.; Lawrence, A.; Myers, R.; Carpenter, K. E.; Smith-Vaniz, W. F. Symphorus nematophorus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa: e.T194347A2317915. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-3.RLTS.T194347A2317915.en. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Lutjaniformes: Families Haemulidae and Lutjanidae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2022.
  3. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Mesoprion nematophorus. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2022.
  4. ^ Nguyễn Hữu Phụng (2004). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
  5. ^ Lê Thị Thu Thảo (2011). “Danh sách các loài thuộc họ cá Hồng Lutjanidae ở vùng biển Việt Nam” (PDF). Hội nghị khoa học toàn quốc về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật lần thứ 4: 362–368. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2022.
  6. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Symphorus nematophorus trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  7. ^ Gerald R. Allen (1985). “Symphorus” (PDF). Vol.6. Snappers of the world. Roma: FAO. tr. 160–161. ISBN 92-5-102321-2.
  8. ^ Currey, Leanne M.; Simpfendorfer, Colin A.; Williams, Ashley J. (2009). “Resilience of reef fish species on the Great Barrier Reef and in Torres Strait” (PDF). Project Milestone Report: 1–32.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Neia và màn lột xác sau trận chiến bảo vệ thành Loyts
Neia và màn lột xác sau trận chiến bảo vệ thành Loyts
Neia và màn lột xác sau trận chiến bảo vệ thành Loyts, gián điệp do "Nazarick cộng" cài vào.
Amanomahitotsu - thợ rèn đại tài của Ainz Ooal Gown
Amanomahitotsu - thợ rèn đại tài của Ainz Ooal Gown
Trong số đó người giữ vai trò như thợ rèn chính, người sỡ hữu kỹ năng chế tác cao nhất của guild chính là Amanomahitotsu
Tóm tắt chương 221: Cho và nhận - Jujutsu Kaisen
Tóm tắt chương 221: Cho và nhận - Jujutsu Kaisen
Bài viết sẽ tiết lộ nội dung truyện tuy nhiên thì các bạn chắc cũng biết luôn rồi: Gojo Satoru quay trở lại
Borrowed Time - bộ phim ngắn khá u tối của Pixar
Borrowed Time - bộ phim ngắn khá u tối của Pixar
Pixar Animation Studios vốn nổi tiếng với những bộ phim hơi có phần "so deep"