Ở phía tây châu Phi, loài này được biết đến từ lưu vực sông Chad, sông Niger, sông Volta, sông Senegal, sông Gambia, sông Geba, sông Oueme và sông Casamance.[1]
Các thói quen cũng tập tính sinh sản của hầu hết các loài thuộc chi Synodontis vẫn chưa được biết đến, ngoại trừ một số trường hợp có được số lượng trứng từ các con cái có mang. Mùa sinh sản của chúng có khả năng là trong mùa lũ từ tháng 7 đến thàng 10, sau khi chúng kết đôi thì các cặp đôi sẽ bơi với nhau cho đến hết mùa sinh sản[6]. Nhìn chung, chúng là loài ăn tạp. Vì thế nên thức ăn của chúng là ấu trùngcôn trùng, tảo, sò, động vật giáp xác và trứng của các loài cá khác[7]. Tốc độ phát triển của chúng rất cao trong năm đầu tiên, sau đó thì nó giảm dần.[8]
^H. M. Bishai & Y. B. Abu Gideiri (1965). “Studies on the biology of genus Synodontis at Khartoum”. Hydrobiologia. 26 (1–2): 85–97. doi:10.1007/BF00142257.
H. M. Bishai & Y. B. Abu Gideiri (1965). “Studies on the biology of genus Synodontis at Khartoum”. Hydrobiologia. 26 (1–2): 85–97. doi:10.1007/BF00142257.
Cuvier, Georges (1934). The Animal Kingdom Arranged in Conformity with its Organization, Volume 10. Griffith, Edward biên dịch. London: Whittaker and Co. tr. 406.
Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2016). Synodontis nigrita trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2016.