Tô Thức 蘇軾 | |
---|---|
Tên chữ | Tử Chiêm (子瞻) Hòa Trọng (和仲) |
Tên hiệu | Đông Pha cư sĩ (東坡居士) |
Thụy hiệu | Văn Trung |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | 8 tháng 1, 1037 |
Nơi sinh | Mi Sơn, Mi Châu (nay là Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên) |
Quê quán | huyện Mi Sơn |
Mất | |
Thụy hiệu | Văn Trung |
Ngày mất | 24 tháng 8, 1101 | (64 tuổi)
Nơi mất | Thường Châu |
An nghỉ | |
Ngày an táng | 1101 |
Nơi an táng | Giáp |
Giới tính | nam |
Gia quyến | |
Thân phụ | Tô Tuân |
Thân mẫu | Trình phu nhân |
Anh chị em | Tô Triệt |
Vợ đầu | Vương Phất |
Tục huyền | Vương Nhuận Chi |
Hậu duệ | Tô Quá, Tô Đãi, Tô Mại |
Học vấn | Tiến sĩ Nho học |
Chức quan | Hanlin Academy Scholar, Lễ bộ Thượng thư |
Nghề nghiệp | nhà thơ, nhà văn, họa sĩ, dược sĩ, thư pháp gia, nhà sử học, người uyên bác, chính khách, nghệ sĩ âm nhạc, nhà văn tiểu luận |
Tôn giáo | Nho Giáo Phật giáo |
Quốc tịch | Bắc Tống |
Thời kỳ | Bắc Tống |
Tô Thức (giản thể: 苏轼; phồn thể: 蘇軾; bính âm: Sū Shì, 8 tháng 1, 1037–24 tháng 8, 1101), tự Tử Chiêm (子瞻), một tự khác là Hòa Trọng (和仲), hiệu Đông Pha cư sĩ (東坡居士) nên còn gọi là Tô Đông Pha, là Nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc thời Tống. Ông được mệnh danh là một trong Bát đại gia Đường Tống.
Ông sinh ra tại Mi Sơn, Mi Châu, nay là địa cấp thị Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên. Ông nội Đông Pha tên là Tô Tự, cha ông là Tô Tuân (蘇洵, tự là Minh Doãn, 1009-1066), mẹ ông họ Trình (?-1057) và em trai là Tô Triệt (蘇轍, tự là Tử Do, 1039-1112). Ba cha con ông đều là những nhà thơ có tiếng.
Đông Pha cưới vợ đầu là Vương Phất (1040-1065) nhỏ hơn ông ba tuổi, năm ông 18 tuổi (1055). Sau 3 năm tang vợ, ông cưới vợ thứ hai là Vương Nhuận Chi (em họ của vợ đầu) vào tháng 6 năm 1068.
Đông Pha cùng cha và em là ba trong số tám đại văn hào lớn nhất (bát đại gia) Trung Quốc suốt bảy thế kỷ từ thế kỷ VII đến XIII. Ông giỏi cả cổ văn lẫn thơ, phú. Tất cả các tác phẩm của ông cộng lại khoảng 1 triệu chữ. Riêng về thi từ, ông có khoảng 1700 bài. Còn cổ văn của ông là "thiên hạ vô địch", cứ hạ bút là thành văn, không cần lập dàn ý, cứ như là "hành vân, lưu thủy". Âu Dương Tu mà hôm nào nhận được một bài văn của ông thì vui sướng cả ngày, còn vua Tống Thần Tông hay đọc bài của ông trong bữa ngự thiện, quên gắp cả thức ăn.
Năm 1056-1057, Đông Pha cùng cha và em vượt suốt hai tháng qua miền núi non hiểm trở lên kinh (Khai Phong) đi thi. Họ đến Khai Phong tháng 5 năm 1056 và chờ kỳ thi cho đến mùa xuân năm sau. Kỳ thi do Âu Dương Tu làm chánh chủ khảo chú trọng đến việc tìm kẻ sĩ có tài trị dân, thể lệ thi gắt gao và đích thân vua Tống Nhân Tông chọn đầu bài. Bài thứ nhất hỏi về sử hoặc chính trị, bài thứ hai là bài về tứ thư, ngũ kinh, bài thứ ba là một bài phú luận về chính trị. Năm đó, Tô Tuân không ứng thí vì không muốn ganh đua với hai con, còn cả hai anh em Đông Pha đều đỗ cao, đề bài luận về chính trị là "Hình thưởng trung hậu chi chí luận" (luận về sự trung hậu rất mực trong phép thưởng phạt).
Cuối năm 1059 đầu năm 1060, hết tang mẹ, Đông Pha cùng cha và em mất 4 tháng vượt 2.000 cây số quay trở lại kinh để dự thi. Trên đường đi Đông Pha và Tử Do làm được khoảng 200 bài thơ. Cũng như lần trước, Tô Tuân không ứng thí.
Năm 1061, làm quan ở Thiểm Tây, cùng nhân dân ở đó cầu được mưa, ăn mừng, ông làm bài "Kỉ vũ đình ký" rất nổi danh.
Năm 1071, trên đường Đông Pha rời kinh đi Hàng Châu, ông làm được rất nhiều bài thơ, bài từ. Ông ghé thăm em Tử Do (đang làm chức giáo thụ) ở Trần Châu, rồi hai anh em đi thăm Âu Dương Tu ở gần đó. Ông cùng vợ con đến Hàng Châu ngày 28 tháng 11 năm 1071. Trong suốt thời gian làm quan ở Hàng Châu, ông làm đủ thể loại thơ tả cảnh, tà tình, tả sự đau xót khi thi hành án, thơ trào phúng. Ông làm bạn với các nhà sư, đọc sách Phật. Ông rất thích ca nhi, buổi tiệc nào ông cũng có họ. Các ca nhi này quay quanh ông để ca hát và xin ông đề thơ lên quạt giấy. Do phong cảnh Hàng Châu đẹp và không khí ca nhạc tưng bừng, ông để ý tới thể từ, cải cách nó và nổi danh thành một Từ gia bậc nhất đời Tống.
Đông Pha là một nhà chính trị theo Cựu đảng do Tư Mã Quang cầm đầu. Ông là người chỉ trích mạnh mẽ nhất tân pháp của Tân đảng do Vương An Thạch cầm đầu. Ông là người theo đạo Phật, có lòng từ bi và rất mực yêu thương nhân dân, không tham ô hối lộ. Ông là người có tính cương trực, ít giữ mồm giữ miệng, có gì nói đấy nên sự nghiệp chính trị của ông đầy sóng gió.
Năm 1057, sau khi thi đậu, mẹ ông mất, ông phải cùng cha và em chịu tang, không lĩnh chức vụ gì hết. Năm 1060, Đông Pha nhận được một chức quan nhỏ là chủ bạ huyện Phúc Xương tỉnh Hà Nam. Năm 1061, nhậm chức Thiêm phán phủ Phượng Tường tỉnh Thiểm Tây. Năm 1065, vào làm việc ở Sử quán có cơ hội đọc những sách quý và các danh họa tàng trữ ở bí thư các. Năm 1066, cùng em là Tử Do xin nghỉ việc quan lo tang cho cha. Họ phải bỏ gần một năm, vượt mấy nghìn cây số để đưa quan tài cha về quê nhà chôn cất. Năm 1069, Đông Pha trở lại kinh thành nhận chức Giám quan. Suốt những năm sau đó ông cùng em đả kích mạnh mẽ các chính sách cải cách của Tân đảng như "Phép Thị Dịch", "Phép Mộ Dịch" do thừa tướng Vương An Thạch thi hành. Ông đã viết một bài thơ chỉ trích thuế muối của Vương An Thạch.[1] Có lần Đông Pha bị người nhà của Vương An Thạch vu oan là lạm dụng quyền lực cướp tiền dân mua bát đĩa. Vua Thần Tông không nghe lời dèm pha mà giáng chức Đông Pha, nhưng chuyển ông ra Hàng Châu. Tuy nhiên, Tô Thức vẫn giữ mối quan hệ cá nhân tốt với thừa tướng họ Vương.[1]
Chức danh mới của ông tại Hàng Châu không có kinh phí, khiến ông trở nên bần cùng. Với sự giúp đỡ của một người bạn, Tô Thức mua một khoảnh đất nhỏ có tên là Đông Pha, tên này sau đó đã thành tên hiệu của ông. Trong giai đoạn ẩn cư tại đây, ông đã dần dần ưa thích nó và nhiều bài thơ hay nhất của ông đã được sáng tác trong thời kỳ này.[2]
Đông Pha là một nhà thư pháp có bút pháp liệt vào hàng nổi tiếng và có giá trị nhất.
Đông Pha là một họa sĩ nổi tiếng về vẽ trúc và núi. Năm 1065, vào làm việc ở Sử quán và có cơ hội đọc những sách quý và các danh họa tàng trữ ở bí thư các.
Những tác phẩm của ông gồm có: Tiền Xích Bích phú (前赤壁賦), Hậu Xích Bích phú (hai bài phú này là hai viên ngọc của cổ văn Trung Hoa), Kỉ Vũ Đình ký...
Dịch thuật: Nguyễn Hiến Lê
Thịt kho Đông Pha trải qua 3 giai đoạn phát triển song song với cuộc đời Tô Đông Pha: đầu tiên là ở Từ Châu, thành phố phía bắc tỉnh Giang Tô, nơi thịt kho Đông Pha lần đầu tiên xuất hiện với tên gọi là thịt kho Huy Tông. Tiếp đó, do xáo trộn trong triều đình mà ông bị đày tới Hoàng Châu (ngày nay là Hoàng Cương), tỉnh Hồ Bắc, nơi Tô Đông Pha hoàn thiện thêm phương pháp, công thức nấu ăn. Cuối cùng, ông được phục chức ở Hàng Châu (ngày nay thuộc Chiết Giang), nơi món thịt kho Đông Pha trở nên nổi tiếng trên toàn Trung Quốc.
Thời điểm sống ở Hàng Châu, Tô Đông Pha giữ chức quan phụ trách điều tiết nước. Khi ấy, hồ Tây trong thành phố bị bao phủ bởi rong rêu, dẫn tới tắc nghẽn nặng nề. Đông Pha điều hàng chục nghìn công nhân tới nạo vét hồ và bùn thải, xây dựng cầu nổi, khôi phục vẻ đẹp vốn có của hồ Tây và biến nó thành nơi trữ nước tưới tiêu nông nghiệp. Người dân trong vùng để tỏ lòng biết ơn đã đem thịt lợn dâng cho Tô Đông Pha. Tuy nhiên, ông đã đem số thịt đó nấu thành món thịt kho và gửi lại từng hộ gia đình. Vị ngon đậm đà khó quên của thịt kho đã biến nó trở thành món ăn truyền thống của người Hàng Châu. Để thể hiện lòng tôn trọng, người dân trong vùng quyết định lấy tên ông đặt cho món thịt là thịt kho Đông Pha.
Một chủ nhà hàng lớn ở Hàng Châu sau khi bàn bạc với các đầu bếp của mình đã quyết định đưa món thịt kho Đông Pha vào hệ thống nhà hàng. Nhờ đó, món ăn này được nhiều người biết tới hơn bao giờ hết.[5]
Đường Tống bát đại gia |
---|
Hàn Dũ | Liễu Tông Nguyên | Âu Dương Tu | Tô Tuân | Tô Thức | Tô Triệt | Vương An Thạch | Tằng Củng |