Tần Cơ Vĩ

Tần Cơ Vĩ
秦基偉
Tần Cơ Vĩ năm 1955
Chức vụ
Nhiệm kỳ27 tháng 3 năm 1993 – 2 tháng 2 năm 1997
3 năm, 312 ngày
Ủy viên trưởngKiều Thạch
Nhiệm kỳtháng 3 năm 1988 – tháng 3 năm 1993
Tiền nhiệmTrương Ái Bình
Kế nhiệmTrì Hạo Điền
Nhiệm kỳtháng 1 năm 1980 – tháng 11 năm 1987
Tiền nhiệmTrần Tích Liên
Kế nhiệmChu Y Băng
Nhiệm kỳtháng 1 năm 1973 – tháng 10 năm 1975
Tiền nhiệmLương Hưng Sở
Kế nhiệmLưu Hưng Nguyên
Thông tin cá nhân
Sinh(1914-11-16)16 tháng 11, 1914
Hồng An, Hoàng Cương, Hồ Bắc, Trung Hoa Dân Quốc
Mất2 tháng 2, 1997(1997-02-02) (82 tuổi)
Bắc Kinh, Trung Quốc
Tặng thưởng
Phục vụ trong quân đội
Thuộc Trung Quốc
Phục vụ Lục quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
Năm tại ngũ1927-1993
Cấp bậcThượng tướng
Tham chiến

Tần Cơ Vĩ (giản thể: 秦基伟; phồn thể: 秦基偉; bính âm: Qín Jīwěi; 16 tháng 11 năm 1914 - ngày 2 tháng 2 năm 1997) là một Thượng tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Bộ trưởng Quốc phòng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và là Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Ông được sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo[1] ở Hoàng An (nay là Hồng An, Hoàng Cương), tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc.

Sự nghiệp quân sự

[sửa | sửa mã nguồn]

Tần Cơ Vĩ nhập một nhóm du kích Hà Bắc sau thất bại Khởi nghĩa bắt giữ mùa thu, và dành nhiều năm đầu tiên trong quân đội dưới sự lãnh đạo của Từ Hải ĐôngTừ Hướng Tiền, và cùng với các tướng Trần Tái ĐạoHứa Thế Hữu. Sau một loạt các thất bại, đơn vị của ông phục vụ đã được chỉ định lại Sư đoàn 31, Hồng Quân đoàn 11.[2]

Quân đội Mặt trận thứ tư đã tham gia vào Vạn lý Trường chinh như một đơn vị riêng biệt từ lực lượng chính dưới quyền Chu Ân LaiMao Trạch Đông. Vào cuối tháng 3, Lữ đoàn phải của Từ Hướng Tiền đã bị đánh tan kỵ binh trong một trận chiến có thể đã diễn ra khác đi nếu Mao Trạch Đông không giao phí cho Trương Quốc Đảo chỉ huy Quân đội Mặt trận thứ tư. Một câu chuyện rằng ông và Hồ Diệu Bang bị bắt trong trận chiến và giam giữ trong một năm hoặc lâu hơn trước khi tìm kiếm một cơ hội để trốn thoát.[3]

Năm 1939, ông là tư lệnh Tiểu quân khu 1 của Quân khu Tấn Ký Dự và vào cuối Chiến tranh Trung-Nhật, ông là Tham mưu trưởng Quân khu Thái Hành. Các đơn vị của ông được tổ chức vào Lữ đoàn 9 năm 1947, và sau đó kết hợp với Lũ đoàn 4 của Trần Canh vào Quân đội số 4 của Tập đoàn quân đội số 2, lãnh đạo của Quân đội này là Đặng Tiểu Bình. Năm 1949, ông chỉ huy Quân đoàn 15 của cụm tập đoàn quân 4.

Trận đỉnh núi Thượng Cam

[sửa | sửa mã nguồn]

Ông đã trở nên nổi tiếng trong Chiến tranh Triều Tiên bằng cách chỉ huy Quân đoàn 15 tại Trận đỉnh núi Thượng Cam, được Trung Quốc coi là một trong những trận quyết định của cuộc chiến.[4]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Whitson, William and Huang Chen-hsia, The Chinese High Command: A History of Communist Military Politics, 1927-71, Praeger (New York: 1973), p. 51.
  2. ^ Whitson, p. 126, 153.
  3. ^ Hồ Diệu Bang
  4. ^ Whitson, p. 169, Chart D
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan