Thám hoa (chữ Hán:探花) là một loại danh hiệu của học vị Tiến sĩ trong hệ thống khoa bảng Nho học thời phong kiến ở các quốc gia Đông Á.
Ở Việt Nam, danh hiệu này được xác định trong kỳ thi bậc nhất của thi Đình, còn gọi là Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ, đệ tam danh.[1] Người thi đỗ thám hoa đứng thứ ba trong tam khôi (dưới trạng nguyên và bảng nhãn).
- Vương Hữu Phùng, đỗ Thám hoa năm 1246, vị Thám hoa đầu tiên
- Đặng Ma La, đỗ Thám hoa năm 1247, là Thám hoa trẻ nhất
- Trần Uyên, đỗ Thám hoa năm 1256
- Hạ Nghi, đỗ Thám hoa năm 1266
- Quách Nhẫn, đỗ Thám hoa năm 1275
- Trương Phóng, đỗ Thám hoa năm 1304
- Trần Đình Thâm, đỗ Thám hoa năm 1374
- Lương Như Hộc, đỗ Thám hoa năm 1442
- Chu Thiêm Uy, đỗ Thám hoa năm 1448
- Quách Đình Bảo, đỗ Thám hoa năm 1463
- Vương Khắc Thuật, đỗ Thám hoa năm 1472
- Cao Quýnh, đỗ Thám hoa năm 1475
- Lê Ninh, đỗ Thám hoa năm 1478
- Nguyễn Doãn Địch, đỗ Thám hoa năm 1481
- Mai Duy Tinh, đỗ Thám hoa năm 1484
- Thân Cảnh Vân, đỗ Thám hoa năm 1487
- Lưu Thư Ngạn, đỗ Thám hoa năm 1490
- Lê Hùng, đỗ Thám hoa năm 1493
- Đinh Lưu , đỗ Thám hoa năm 1496
- Nguyễn Khắc Kiệm, đỗ Thám hoa năm 1499
- Nguyễn Văn Thái, đỗ Thám hoa năm 1502
- Trần Phỉ, đỗ Thám hoa năm 1505
- Nguyễn Hữu Nghiêm, đỗ Thám hoa năm 1508
- Vũ Duy Chu, đỗ Thám hoa năm 1511
- Hoàng Minh Tá, đỗ Thám hoa năm 1514
- Lưu Khải Chuyên, đỗ Thám hoa năm 1518
- Nguyễn Quán Đạo, đỗ Thám hoa năm 1523
- Lưu Doãn Trung, đỗ Thám hoa năm 1526
- Nguyễn Văn Huy, đỗ Thám hoa năm 1529
- Ngô Sơn Khoái, đỗ Thám hoa năm 1532
- Nguyễn Thừa Hưu, đỗ Thám hoa năm 1535
- Hoàng Sâm, đỗ Thám hoa năm 1538
- Nguyễn Thế Lộc, đỗ Thám hoa năm 1541
- Nguyễn Tế, đỗ Thám hoa năm 1547
- Nguyễn Minh Dương, đỗ Thám hoa năm 1550
- Trần Vĩnh Tuy, đỗ Thám hoa năm 1553
- Phan Tất Thông, Đệ nhất giáp thám hoa năm 1554
- Nguyễn Nghiêu Tá, đỗ Thám hoa năm 1556
- Đặng Thì Thố, đỗ Thám hoa năm 1559
- Ngô Khuê, đỗ Thám hoa năm 1562
- Vũ Hữu Chính, đỗ Thám hoa năm 1568
- Nguyễn Cung, đỗ Thám hoa năm 1571
- Vũ Văn Khuê, đỗ Thám hoa năm 1574
- Phạm Gia Môn, đỗ Thám hoa năm 1577
- Đỗ Cung, đỗ Thám hoa năm 1580
- Nguyễn Tuấn Ngạn,đỗ Thám hoa năm 1583
- Nguyễn Giáo Phương, đỗ Thám hoa năm 1586
- Giang Văn Minh (1573 - 1638), đỗ Thám hoa lúc 56 tuổi, là Thám hoa già nhất, làm quan đến Thái bộc tự khanh
- Nguyễn Minh Triết, đỗ Thám hoa năm 1631
- Nguyễn Thế Khanh, đỗ Thám hoa năm 1637
- Nguyễn Đăng Cảo, đỗ Thám hoa năm 1646
- Khương Thế Hiền, đỗ Thám hoa năm 1650
- Nguyễn Văn Thực, đỗ Thám hoa năm 1659
- Ngô Khuê, đỗ Thám hoa năm 1661
- Thiều Sĩ Lâm, đỗ Thám hoa năm 1670
- Nguyễn Quý Đức , đỗ Thám hoa năm 1676
- Quách Giai, đỗ Thám hoa năm 1683
- Vũ Thạnh, đỗ Thám hoa năm 1685
- Phạm Khiêm Ích, đỗ Thám hoa năm 1710
- Vũ Công Tể (1687-1745), đỗ Thám hoa lúc 32 tuổi, làm quan đến Tham tụng, Lại bộ Thượng thư
- Ngô Sách Tố, đỗ Thám hoa năm 1721
- Nguyễn Thế Lập, đỗ Thám hoa năm 1727
- Đỗ Huy Kỳ, đỗ Thám hoa năm 1731, làm quan đến thừa chính sứ, Lễ bộ thị lang
- Nhữ Trọng Đài, đỗ Thám hoa năm 1733
- Trần Quốc Hiệu, đỗ Thám hoa năm 1736
- Đặng Văn Kiều (1824-1881), đỗ Thám hoa lúc 42 tuổi, làm quan đến Quốc sử quán Toản tu, từng làm Giám thí (Phó chủ khảo) trường thi Thừa Thiên (tức trường thi Quảng Đức)
- Vũ Phạm Hàm (1864 - 1906), đỗ Thám hoa lúc 29 tuổi, làm quan đến Đốc học Hà Nội.Thám hoa cuối cùng
- Lưỡng quốc Thám Hoa Phan Kính
- Thám Hoa Nguyễn Đức Đạt
- Thám Hoa Nguyễn Văn Giao
- Thám Hoa Nguyễn Huy Oánh