The Cure

The Cure
Thông tin nghệ sĩ
Nguyên quánCrawley, West Sussex, Anh, Liên hiệp Anh
Thể loại
Năm hoạt động1978–nay
Hãng đĩa
Hợp tác với
Thành viên
Cựu thành viên
Websitewww.thecure.com

The Cure là một ban nhạc rock người Anh thành lập tại Crawley, West Sussex vào năm 1978.[1][2][3] Đội hình của ban trải qua nhiều lần thay đổi nhân sự, riêng vị trí của Robert Smith – người đảm nhiệm các vai trò guitar, hát chính và sáng tác là không đổi. Album đầu tay Three Imaginary Boys (1979) cùng những đĩa đơn đầu tiên của The Cure đã đưa ban nhạc tham gia vào các trào lưu post-punknew wave vốn rất thịnh hành tại Anh hồi đó. Bắt đầu từ album thứ hai Seventeen Seconds (1980), nhóm đã thể hiện một phong cách vừa mới mẻ, vừa mang đậm màu sắc khắc khổ và đen tối – chính phong cách mới này kết hợp với hình ảnh của Smith trên sân khấu đã trở thành nguồn cảm hứng mạnh mẽ để khai phá dòng nhạc gothic rock cũng như những tiểu văn hóa phát sinh từ dòng nhạc này.

Sau khi phát hành album thứ tư Pornography vào năm 1982, tương lai ban nhạc trở nên bất định. Smith thì rất khao khát vượt qua tiếng tăm bé nhỏ mà nhóm anh có được lúc bấy giờ để hướng tới việc giới thiệu và đưa chất cảm xúc thiên về pop hơn vào nhạc của nhóm. Những ca khúc như "Let's Go to Bed" (1982), "Close To Me" (1985), "Just Like Heaven" (1987), "Lovesong" (1989) và "Friday I'm in Love" (1992) đều đưa tên tuổi của ban nhạc trở nên phổ cập hơn trong mắt khán giả. Nhóm đã phát hành 13 album phòng thu, 2 đĩa EP và hơn 30 đĩa đơn tính đến nay. The Cure đã được tiến cử vào Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll vào năm 2019.[4][5]

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ McPherson, Sam (17 tháng 4 năm 2018). “The Cure working on new music as part of 40th anniversary”. axs.com.
  2. ^ “The Cure: A Perfect Dream - A Bio of Robert Smith's Goth Band”. Rockarchive. 23 tháng 8 năm 2018.
  3. ^ Collins, Andrew (8 tháng 7 năm 2019). “The Cure: Anniversary 1978-2018 Live in Hyde Park London – review”. Radio Times.
  4. ^ “Class of 2019 inductees”. Rock & Roll Hall of Fame (bằng tiếng Anh). Truy cập 13 tháng 12 năm 2018.
  5. ^ Doyle, Patrick (30 tháng 3 năm 2019). “The Cure's Robert Smith on Rock Hall Induction and 'F-cking Great' New Album”. Rolling Stone.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn đọc

[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Bản mẫu:The Cure Bản mẫu:Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll 2019

Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Xilonen – Lối chơi, hướng build và đội hình
Xilonen – Lối chơi, hướng build và đội hình
Là một support với nhiều tiềm năng và liên tục được buff, Xilonen đã thu hút nhiều chú ý từ những ngày đầu beta
Visual Novel Summer Pockets Việt hóa
Visual Novel Summer Pockets Việt hóa
Bối cảnh Summer Pocket được đặt vào mùa hè trên hòn đảo Torishirojima. Nhân vật chính của chúng ta, Takahara Hairi sống ở thành thị, nhưng vì một sự việc xảy ra nên anh mượn cớ cái chết gần đây của bà ngoại để đến hòn đảo này với lí do phụ giúp người dì dọn dẹp đồ cổ của người bà quá cố
Giới thiệu AG Adara - Magenta Meteor Artery Gear: Fusion
Giới thiệu AG Adara - Magenta Meteor Artery Gear: Fusion
Sở hữu năng lực xoá buff diện rộng kèm hiệu ứng Speed Reduction, đặc biệt là rush action cực khủng
That Time I Got Reincarnated as a Slime: Trinity in Tempest
That Time I Got Reincarnated as a Slime: Trinity in Tempest
Trinity in Tempest mang đến cho độc giả những pha hành động đầy kịch tính, những môi trường phong phú và đa dạng, cùng với những tình huống hài hước và lôi cuốn