The Seven Year Itch

The Seven Year Itch
Áp phích phim
Đạo diễnBilly Wilder
Tác giảGeorge Axelrod
Billy Wilder
Sản xuấtCharles K. Feldman
Billy Wilder
Diễn viênMarilyn Monroe
Tom Ewell
Quay phimMilton R. Krasner
Dựng phimHugh S. Fowler
Âm nhạcAlfred Newman
Phát hành20th Century Fox
Công chiếu
  • 1 tháng 6 năm 1955 (1955-06-01) (Công chiếu)
  • 3 tháng 6 năm 1955 (1955-06-03) (Mỹ)
Thời lượng
105 phút
Quốc giaMỹ
Ngôn ngữTiếng Anh
Kinh phí1,800,000 đô-la Mỹ (ước tính)
Doanh thu12,000,000 đô-la Mỹ (Mỹ)[1]
6,000,000 đô-la Mỹ (giải trí tại gia Mỹ)[1]

The Seven Year Itch là bộ phim lãng mạn hài hước Mỹ năm 1955, dựa trên vở kịch cùng tên của George Axelrod. Bộ phim do Billy Wilder đồng sáng tác và đạo diễn, với diễn xuất của Marilyn MonroeTom Ewell. Phim xuất hiện một trong những hình ảnh biểu tượng của thế kỷ 20 – Monroe đứng trên nắp cống tàu ngầm khi chiếc đầm trắng của cô bị thổi bay lúc đoàn tàu chạy qua. Tựa đề bộ phim được nhiều nhà tâm lý học sử dụng.[2]

Tuyển vai

[sửa | sửa mã nguồn]
Tom Ewell và Marilyn Monroe.
Trailer Phim

Nhạc phim

[sửa | sửa mã nguồn]
Bài hát[3] Trình bày Ghi chú
"Piano Concerto No. 2" - Xuất hiện trong nhạc phim
"Chopsticks" Marilyn MonroeTom Ewell -

Sản xuất

[sửa | sửa mã nguồn]
Hình ảnh cúa Monroe gặp nhiều so sánh với một sự kiện tương tự trong phim ngắn What Happened on Twenty-third Street, New York City (1901).[4][5]

The Seven Year Itch ghi hình giữa ngày 1 tháng 9 đến 4 tháng 11 năm 1954, là bộ phim duy nhất của Billy Wilder, phát hành bởi 20th Century Fox. Nhân vật Elaine (Dolores Rosedale), Marie và giọng nói thâm tâm của Sherman và Cô gái lấy từ vở kịch; nhân vật Plumber, Miss Finch (Carolyn Jones), Bồi bàn (Doro Merande) và Kruhulik (Robert Strauss) được thêm vào. Nhiều câu thoại và cảnh bị cắt hoặc viết lại vì bị cho là không phù hợp. Cảnh tốc váy của Monroe được quay hai lần: lần đầu tiên ở bên ngoài Trans-Lux 52nd Street Theater, sau này là ở 586 Lexington Avenue tại Manhattan, trong khi cảnh thứ hai quay ở phim trường. Cảnh quay giữa Walter Matthau và Ewell xuất hiện trong bản DVD của bộ phim. Saul Bass tạo nên đoạn hoạt hình đầu phim, là lần duy nhất trong một bộ phim của Wilder.

Phát hành

[sửa | sửa mã nguồn]

Đánh giá chuyên môn

[sửa | sửa mã nguồn]

Bài đánh giá năm 1955 của Variety là rất tích cực. Dù mã sản xuất Hollywood lúc bấy giờ không cho phép Billy Wilder thực hiện một bộ phim hài về gian dâm, bài đánh giá bày tỏ sự thất vọng vì nhân vật Sherman vẫn còn trong sạch.[6][7]

Phòng vé

[sửa | sửa mã nguồn]

Phim mang về 6 triệu đô-la Mỹ tại phòng vé Bắc Mỹ.[8]

Giải thưởng và vinh danh

[sửa | sửa mã nguồn]

Giải thưởng

[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày Giải thưởng Hạng mục Đối tượng Kết quả
29 tháng 1 năm 1956[9][10] Directors Guild of America Award Outstanding Directorial Achievement in Motion Pictures Billy Wilder Đề cử
23 tháng 2 năm 1956[11][12] Giải Quả cầu vàng Nam diễn viên phim ca nhạc hoặc phim hài xuất sắc nhất Tom Ewell Đoạt giải

Công nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Loạt danh sách 100 năm... của Viện phim Mỹ

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b “The Seven Year Itch > Details > Box Office”. Internet Movie Database. IMDb. imdb.com. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2012.
  2. ^ Dalton, Aaron (tháng 1 năm 2001). “The Ties That Unbind”. Psychology Today. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2008.
  3. ^ “The Seven Year Itch (1955): Soundtracks”. IMDb. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014.
  4. ^ Rosemary Hanes with Brian Taves. "Moving Image Section—Motion Picture, Broadcasting and Recorded Sound Division" The Library of Congress. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2011.
  5. ^ Lee Grieveson, Peter Krämer. The silent cinema reader (2004) ISBN 0-415-25283-0, ISBN 0-415-25284-9, Tom Gunning "The Cinema of Attractions" p.46. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2011.
  6. ^ Variety Staff (ngày 1 tháng 1 năm 1955). “The Seven Year Itch”. Variety. Reviews. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2008.
  7. ^ "Conversations with Billy Wilder & I.A.L. Diamond [Part 8" November 28th, 2011 by Scott Go Into the Story] Lưu trữ 2016-08-22 tại Wayback Machine accessed ngày 28 tháng 5 năm 2014
  8. ^ "All Time Domestic Champs", Variety, ngày 6 tháng 1 năm 1960, tr. 34.
  9. ^ “Directors Guild of America, USA: Awards for 1956”. IMDb. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2014.
  10. ^ “8th Annual DGA Awards: Honoring Outstanding Directorial Achievement for 1955 – Winners and Nominees - Feature Film”. DGA. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2014.
  11. ^ “The Envelope: Past Winners Database - 1955 13th Golden Globe Awards”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2014.
  12. ^ “The 13th Annual Golden Globe Awards (1956)”. hfpa.org. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2014.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Những điều khiến Sukuna trở nên quyến rũ và thành kẻ đứng đầu
Những điều khiến Sukuna trở nên quyến rũ và thành kẻ đứng đầu
Dáng vẻ bốn tay của anh ấy cộng thêm hai cái miệng điều đó với người giống như dị tật bẩm sinh nhưng với một chú thuật sư như Sukuna lại là điều khiến anh ấy trở thành chú thuật sư mạnh nhất
5 lọ kem dưỡng bình dân cho da dầu
5 lọ kem dưỡng bình dân cho da dầu
Nhiều người sở hữu làn da dầu không biết rằng họ vẫn cần dùng kem dưỡng ẩm, để cải thiện sức khỏe tổng thể, kết cấu và diện mạo của làn da
Nhân vật Zanac Valleon Igana Ryle Vaiself - Overlord
Nhân vật Zanac Valleon Igana Ryle Vaiself - Overlord
Zanac được mô tả là một người bất tài trong mắt nhiều quý tộc và dân thường, nhưng trên thực tế, tất cả chỉ là một mưu mẹo được tạo ra để đánh lừa đối thủ của anh ta
Review và Cảm nhận “Một thoáng ra rực rỡ ở nhân gian”
Review và Cảm nhận “Một thoáng ra rực rỡ ở nhân gian”
Đây là cuốn sách nhưng cũng có thể hiểu là một lá thư dài 300 trang mà đứa con trong truyện dành cho mẹ mình - một người cậu rất rất yêu