Thiện Đức Nữ Vương 善德女王 | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Nữ vương Tân La | |||||||||||||
Tượng của Thiện Đức Nữ Vương | |||||||||||||
Quốc vương thứ 27 của Tân La | |||||||||||||
Trị vì | 20 tháng 1 năm 632 – 20 tháng 2 năm 647 (15 năm, 28 ngày) | ||||||||||||
Tiền nhiệm | Chân Bình Vương | ||||||||||||
Kế nhiệm | Chân Đức nữ vương | ||||||||||||
Thông tin chung | |||||||||||||
Sinh | 580? | ||||||||||||
Mất | 20 tháng 2 năm 647 Tân La | (66–67 tuổi)||||||||||||
| |||||||||||||
Hoàng tộc | Vương tộc họ Kim | ||||||||||||
Thân phụ | Chân Bình Vương (真平王) | ||||||||||||
Thân mẫu | Vương hậu Ma Da | ||||||||||||
Tôn giáo | Phật giáo |
Thiện Đức Nữ vương (tiếng Hàn: 선덕여왕), tên thật là Kim Đức Mạn, là nữ vương của nước Tân La (một trong ba vương quốc thời kỳ Tam Quốc Triều Tiên gồm Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân La) từ năm 632 đến năm 647.[1] Bà là vị vua thứ 27 của vương quốc Tân La, và là vị nữ vương đầu tiên trong lịch sử Triều Tiên.
Trước khi trở thành nữ vương, Thiện Đức (선덕) được gọi là Công chúa Đức Mạn (tiếng Hàn:덕만공주, chữ Hán: 德曼公主, Đức Mạn công chúa). Cô là con gái thứ hai trong số ba người con gái của Chân Bình Vương. Chị gái cô, Thiên Minh công chúa (tiếng Hàn: 천명공주; chữ Hán: 天明公主), sinh ra được một người con trai tên là Kim Xuân Thu, là người sẽ trở thành Tân La Vũ Liệt vương sau này. Trong khi một người chị em khác của cô – Thiện Hoa công chúa (tiếng Hàn:善花公主, chữ Hán: 선화공주), lại kết hôn với Vũ vương của nước Bách Tế, sau đó thì trở thành mẫu hậu của Nghĩa Từ Vương của Bách Tế, vị vua cuối cùng của Bách Tế, trước khi bị diệt bởi liên minh giữa Tân La và nhà Đường.
Sự tồn tại của công chúa Thiện Hoa hiện nay vẫn đang tranh cãi, vì có nhiều bằng chứng lịch sử cho rằng mẹ của Nghĩa Từ Vương là Vương hậu Sataek, và phủ nhận vai trò lịch sử của Thiện Hoa.
Chân Bình Vương không có con trai, Thiên Minh công chúa lại mất sớm, Thiện Hoa công chúa lại ở Bách Tế, còn con trai của Thiên Minh công chúa là Kim Xuân Thu còn trẻ tuổi nên ông ta đã chọn Đức Mạn công chúa lên làm Thế nữ để sau này sẽ kế vị mình. Điều này không có gì khác thường ở Tân La, bởi vì phụ nữ trong thời đại này có vai trò tương đối cao với nhiều cố vấn, quý phu nhân và vương hậu nhiếp chính xuất hiện ở đất nước.
Khắp vương quốc, phụ nữ không phải là người có tiếng nói trong gia đình từ khi chế độ mẫu hệ suy yếu bên cạnh chế độ phụ hệ. Tư tưởng Nho giáo đã đặt người phụ nữ vào một vị trí thấp, không có tầm ảnh hưởng gì lớn trong xã hội Triều Tiên, cho tới tận giữa triều đại nhà Triều Tiên thế kỷ thứ XV.
Trong vương triều Tân La, vai trò của người phụ nữ tương đối cao, nhưng vẫn có sự hạn chế trong hành xử và lễ giáo của người phụ nữ. Phụ nữ thường bị hạn chế tham gia vào các hoạt động lớn vì xã hội cho rằng chúng không phù hợp với họ.
Ngày 20 tháng 1 năm 632, sau khi Chân Bình vương mất, Thiện Đức trở thành người lãnh đạo của Tân La, và bà trị vì đến năm 647. Bà là người đầu tiên trong số 3 nữ vương của vương quốc Tân La (Hai người còn lại là Chân Đức nữ vương và Chân Thánh nữ vương). Bà cũng là nữ hoàng đầu tiên ở Đông Á. Sau khi bà mất, vào năm 654 Chân Đức Nữ Vương lại tiếp tục sự nghiệp của bà.
Khi bà làm Nữ vương thì vua Đường Thái Tông (Lý Thế Dân) của nhà Đường từng gửi thư cho bà với thái độ cợt nhả rằng bà là phụ nữ thì không nên làm vua. Đường Thái Tông không thể biết được rằng sau này một tài nhân của mình là Võ Chiếu lại soán ngôi nhà Đường của ông và lập ra nhà Võ Chu (690 - 705) trong một thời gian.
Suốt thời kỳ mà Thiện Đức Nữ Vương trị vì, chiến tranh, bạo lực và loạn lạc xảy ra liên miên giữa Tân La với nước láng giềng Bách Tế.
Năm 633 vua Bách Tế Vũ vương của Bách Tế huy động quân đội lớn tấn công Tân La, chiếm được mấy thành.
Năm 636 vua Bách Tế Vũ vương của Bách Tế huy động quân đội lớn tấn công Thung lũng sông Hán của Tân La, chiếm được vài thành. Tướng Tân La là Kim Yu-shin (Kim Dữu Tín) lãnh đạo quân dân Tân La đánh bại quân Bách Tế vào năm 637. Quân Bách Tế phải rút lui khỏi Thung lũng sông Hán.
Trong mười bốn năm làm nữ vương, sự sáng suốt của bà đã đem lại nhiều lợi ích cho vương quốc. Dưới thời của bà, Tân La ngày càng nới lỏng sự phụ thuộc vào nước láng giềng Trung Quốc, hiện lúc đó là nhà Đường, đồng thời bà còn gửi học giả sang nhà Đường để học hỏi.
Bà là một người sùng đạo Phật và đã cho xây dựng nhiều ngôi chùa lớn. Sau này Nữ hoàng đế nhà Chu là Võ Tắc Thiên cai trị Trung Quốc từ năm 690 đến năm 705 cũng tôn sùng đạo Phật và xây dựng nhiều ngôi chùa lớn như tựa như bà.
Bà đã cho xây dựng Tháp Thiên văn, hay Cheomseongdae (Chiêm tinh đài), được xem như đài thiên văn đầu tiên ở Phương Đông. Ngôi tháp này vẫn còn tồn tại ở thủ đô vương quốc Tân La cũ, nay là tỉnh Gyeongju (Khánh Châu), Hàn Quốc.
Trong giai đoạn này, vương quốc Cao Câu Ly (đời vua Cao Câu Ly Vinh Lưu Vương) ở phía bắc, dưới quyền kiểm soát của tướng Uyên Cái Tô Văn (Yeon Gaesomun), có thái độ hung hăng chống Tân La và nhà Đường (đời vua Đường Thái Tông). Tân La phản ứng bằng cách liên minh chặt chẽ với nhà Đường, đe dọa Bách Tế (đời vua Bách Tế Vũ vương) đứng giữa.
Năm 640, vua Bách Tế Vũ vương của Bách Tế huy động quân đội lớn tấn công Tân La nhưng bị tướng Tân La là Kim Yu-shin (Kim Dữu Tín) lãnh đạo quân dân Tân La đánh bại. Quân Bách Tế phải rút lui. Sau đó vua Bách Tế Vũ vương qua đời vào năm 641, Bách Tế Nghĩa Từ Vương lên kế vị ngôi vua Bách Tế.
Năm 642, nước Cao Câu Ly có loạn: một vị đại thần là Uyên Cái Tô Văn (Yeon Gaesomun) giết vua Cao Câu Ly Vinh Lưu vương rồi lập Cao Câu Ly Bảo Tạng vương lên ngôi và đem quân đánh Tân La. Tân La càng bị cô lập hơn nữa khi Cao Câu Ly phục hồi quan hệ với Nụy tại Nhật Bản (đời Nữ Thiên hoàng Kōgyoku). Trong năm 642, Tân La cử Kim Xuân Thu đến Cao Câu Ly để thương lượng một hiệp ước, song khi Uyên Cái Tô Văn yêu cầu trao trả lại khu vực Hán Thành (Seoul ngày nay) thì cuộc đàm phán bị đổ vỡ, dẫn đến việc nữ hoàng Tân La là Thiện Đức Nữ Vương phải cầu cứu nhà Đường (đời vua Đường Thái Tông). Cùng năm 642, vua Bách Tế Nghĩa Từ Vương của nước Bách Tế dẫn đầu một chiến dịch chống lại Tân La và chiếm khoảng 40 thành. Bách Tế Nghĩa Từ Vương cũng gửi một lực lượng gồm 10.000 lính để chiếm thành Đại Da (Daeya) của Tân La và sát hại con rể của Kim Xuân Thu (Kim Chunchu).
Năm 643, vua Bách Tế Nghĩa Từ Vương của nước Bách Tế cùng với quân Cao Câu Ly tấn công Tân La một lần nữa để chặn tuyến đường ngoại giao của Tân La với nhà Đường.
Năm 644 tướng Tân La là Kim Yu-shin (Kim Dữu Tín) lãnh đạo quân Tân La đánh chiếm lại vài thành trì của Bách Tế (đời vua Bách Tế Nghĩa Từ Vương).
Năm 645, vua Đường Thái Tông thân chinh đem 20 vạn quân từ Lạc Dương đi đánh Cao Câu Ly (đời vua Cao Câu Ly Bảo Tạng vương). Thiện Đức Nữ Vương của Tân La cũng cung ứng quân lương, quân đội Tân La và vũ khí cho quân Đường xâm lược Cao Câu Ly. Vua Bách Tế Nghĩa Từ Vương của nước Bách Tế đã tấn công Tân La và chiếm được bảy thành. Tuy nhiên quân Đường bại trận ở thành An Thị của Cao Câu Ly, phải rút lui cùng năm.
Trong vương quốc Tân La dưới triều Thiện Đức Nữ Vương, Thượng đại đẳng Bidam (chữ Hán:毗曇; Bì Đàm) là người đã lãnh đạo một cuộc nổi loạn chống lại bà vào ngày 7 tháng 1 âm lịch năm 647 (tức là ngày 16 tháng 2 dương lịch năm 647), vì ông ta cho rằng "một nữ vương không thể điều hành một quốc gia" (Nguyên văn: 女主不能善理: "Nữ vương bất năng thiện lý").[2] Quân đội của Bidam nhanh chóng đánh đến trước kinh đô của Tân La, chuẩn bị kịch chiến với quân đội của Thiện Đức Nữ Vương trong kinh đô.
Truyền thuyến nói rằng, trong cuộc binh biến này, có một ngôi sao đã rơi xuống, Bidam và tùy tùng cho rằng đó chính là dấu hiệu kết thúc giai đoạn trị vì của Thiện Đức Nữ Vương. Quân đội của Bidam lên tinh thần và quân đội của nữ vương bị mất nhuệ khí. Kim Yu Shin (chữ Hán:김庾信, Kim Dữu Tín) đã khuyên Nữ Vương thả lên trời một con diều lửa nhằm tuyên bố rằng ngôi sao nọ (con diều lửa nhìn từ xa trong đêm giống như một ngôi sao) đang trở về chỗ cũ của nó. Quân đội của Bidam bị hốt hoảng và bị quân đội của Nữ Vương đánh bại vài trận.
Thiện Đức Nữ Vương từ trần vào ngày 11 tháng 1 âm lịch năm 647, tức là ngày 20 tháng 2 dương lịch năm 647. Khi Chân Đức nữ vương bước lên ngai vàng của Tân La, cuộc nổi loạn của Bidam mới bị dập tắt. Mười ngày sau cuộc nổi loạn, Bidam cùng 30 người tùy tùng đã bị hành quyết vào ngày 17 tháng 1 âm lịch năm 647, tức là ngày 26 tháng 2 dương lịch năm 647. Mười ngày sau khi Thiện Đức Nữ vương qua đời, Chân Đức nữ vương phong cho Kim Alcheon thay thế chức vụ Thượng đại đẳng của Bidam vào ngày 21 tháng 1 âm lịch năm 647, tức là ngày 2 tháng 3 năm 647.
Thiện Đức được vua cha lựa chọn làm người kế vị là do sự biểu hiện thông minh sâu sắc của bà ngay từ khi bà còn là Đức Mạn công chúa. Một câu chuyện được truyền tụng trong cả hai cuốn sách sử nổi tiếng: Samguk Sagi (Hán tự: 三國史記 – Tam Quốc sử ký) và Samguk Yusa (Hán tự: 三國遺事 - Tam Quốc di sự)[3]) như sau:
Có hai sự kiện khác nhau của Thiện Đức thể hiện khả năng tiên đoán sự việc, một khả năng lạ lùng của bà:
Không có thông tin chính thức về chồng của Thiện Đức Nữ Vương, tuy nhiên có nhiều dị bản như sau:
o Theo Tam Quốc di sự, chồng của Thiện Đức là Cát văn vương Eum (飮葛文王, 음갈문왕, Ẩm Cát văn vương) – có thể đã kết hôn với Thiện Đức Nữ Vương một năm sau khi cô bước lên ngai vàng.
o Theo Biên niên sử Hoa Lang (Hwarang segi, Hoa Lang thể ký), chồng của Thiện Đức Nữ Vương có thể là những người sau: