Tiếng Mãn

Mãn
ᠮᠠᠨᠵᡠ ᡤᡳᠰᡠᠨ manju gisun
Sử dụng tạiTrung Quốc
Khu vựcHắc Long Giang, Siberia
Tổng số người nói18 (năm 2007)[1]
Dân tộc10,7 triệu người Mãn (thống kê năm 2000)
Phân loạiTungus
  • Tungus Nam
    • Nhóm Nữ Chân
      • Mãn
Phương ngữ
Hệ chữ viếtBảng chữ cái tiếng Mãn
Mã ngôn ngữ
ISO 639-2mnc
ISO 639-3mnc
Glottologmanc1252[2]
ELPManchu
Bài viết này có chứa ký tự ngữ âm IPA. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác thay vì kí tự Unicode. Để biết hướng dẫn giới thiệu về các ký hiệu IPA, xem Trợ giúp:IPA.

Tiếng Mãn Châu hay Tiếng Mãn, thuộc ngữ hệ Tungus, là tiếng mẹ đẻ của người Mãn Châu ở vùng Đông Bắc Trung Quốc và từng là một trong những ngôn ngữ chính thức của triều đại nhà Thanh (1636-1912).

Thời Thanh, tiếng Mãn còn được gọi là Thanh ngữ hay Quốc ngữ, được xem là ngôn ngữ chính thức[3], vì vậy đến nay vẫn còn lưu lại rất nhiều văn hiến tiếng Mãn. Giai đoạn đầu, văn thư của nhà Thanh toàn bộ đều sử dụng tiếng Mãn để ghi chép. Sau khi nhập quan bắt đầu sử dụng song song Mãn - Hán. Vì giao lưu văn hóa mà tiếng Mãn xuất hiện rất nhiều từ mượn từ tiếng Mông Cổ hay tiếng Hán, đồng thời cũng có một bộ phận từ ngữ nguồn gốc từ các ngôn ngữ khác.[4]

Đến thời Thanh mạt, một bộ phận lớn người Mãn chỉ biết tiếng Hán, còn tiếng Mãn dần dần suy thoái. Hiện nay, hầu hết người Mãn Châu nói tiếng Quan Thoại. Chỉ có chưa đến 70 người dùng tiếng Mãn Châu như tiếng mẹ đẻ hoặc pha trộn trong tổng số gần 10 triệu người Mãn Châu. Mặc dù tiếng Tích Bá, có 40.000 người sử dụng, được xem là giống với tiếng Mãn Châu, nhưng người nói tiếng Tích Bá lại sống ở miền viễn tây Tân Cương và là dân tộc khác với người Mãn Châu.[5][6][7] Tiếng Mãn Châu đang có nguy cơ tuyệt chủng.

Nguồn gốc

[sửa | sửa mã nguồn]
Hoành phi tại Càn Thanh môn của Càn Thanh Cung tại Tử Cấm ThànhBắc Kinh (bên trái là tiếng Hán: 乾清門, bên phải là tiếng Mãn: ᡴᡳᠶᠠᠨ
ᠴᡳᠩ
ᠮᡝᠨ
, Möllendorff: kiyan cing men, Abkai: kiyan qing men
Cách viết "Mãn ngữ" bằng tiếng Mãn (ᠮᠠᠨᠵᡠ ᡤᡳᠰᡠᠨ manju gisun.

Người Nữ Chân cổ thông qua sự dung hợp không ngừng của các bộ lạc, đến Thế kỷ 17 thì hình thành một dân tộc mới - Mãn tộc. Tiếng Mãn cũng theo tiếng nói của người Mãn mà phát triển nên. Giống với nhiều ngôn ngữ khác, trong quá trình hình thành, tiếng Mãn chịu ít nhiều ảnh hưởng từ tiếng Mông Cổ, tiếng Hán và một số ngôn ngữ khác.

Tiếng Mãn thuộc họ ngôn ngữ Mãn - Tungus. Các nhà nghiên cứu nhận định, họ ngôn ngữ này có tổng cộng 12 loại ngôn ngữ khác nhau, chủ yếu phân bố ở Trung Quốc, Nga, XibiaMông Cổ. Riêng ở Trung Quốc ngoài tiếng Mãn và tiếng Nữ Chân thì còn có tiếng Xibe (hay tiếng Tích Bá), tiếng Nanai (hay tiếng Hách Triết), tiếng Evenk (hay tiếng Ngạc Ôn Khắc) và tiếng Oroqen (hay tiếng Ngạc Luân Xuân).

Suốt thời Thanh, tiếng Mãn còn được gọi là "Thanh ngữ" hay "Quốc ngữ", có tổng cộng 25 phụ âm, trong đó có 3 phụ âm chỉ chuyên dùng để viết các từ tiếng Hán. Có 6 nguyên âm, không phân chia dài ngắn. Có một số quy luật kết hợp nguyên âm, nhưng không thực sự chặt chẽ, có hiện tượng đồng hóa ngữ âm. Cấu trúc chủ yếu thứ tự là chủ ngữ, tân ngữ và vị ngữ. Ý nghĩa của từ tương đối phong phú, có thể linh hoạt biểu đạt ý nghĩa ngữ pháp.

Tiếng Mãn nguyên bản là tiếng nói của người Nữ Chân, nhưng tiếng Mãn không đồng nghĩa với tiếng Nữ Chân. Quan hệ của 2 tiếng này tương tự như tiếng Anh hiện đại và tiếng Anh trung cổ.

Hiện trạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Hậu duệ của người Xô Viết hay Liên Bang Nga sử dụng tiếng Mãn chỉ giới hạn ở vùng Amur.

Trung Quốc đại lục

[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày lễ [Ban kim tiết] truyền thống của người Mãn do thành phố Trường Xuân tổ chức vào năm 2011


Thời Thanh trung hậu kỳ, người Mãn bắt đầu chuyển sang sử dụng tiếng Hán. Hiện nay, người thông thạo tiếng Mãn rất ít, chỉ còn một số người lớn tuổi ở Hắc Long Giang và các chuyên gia ngôn ngữ học có thể sử dụng ngôn ngữ này. Trong Đại học Hắc Long Giang có sở nghiên cứu tiếng Mãn.

Nhiều người cho rằng tiếng Daur (Đạt Oát Nhĩ) là tiếng Mãn, đây là nhận định sai lầm. Tiếng Đạt Oát Nhĩ thuộc hệ Mông Cổ, không thuộc hệ Mãn - Tangus như tiếng Mãn. Tiếng Xibe (Tích Bá) là một phương ngôn của tiếng Mãn.

Những năm gần đây, nhờ rất nhiều sự nỗ lực, nghiên cứu tiếng Mãn trở thành một khoa trọng điểm của Đại học Hắc Long Giang. Các lớp dạy tiếng Mãn cũng bắt đầu xuất hiện ở một số thành phố và trên Internet.

Ngày 1 tháng 10 năm 2005, Hội nghiên cứu ngôn ngữ Mãn - Tangus (Học sinh xã đoàn) ở Đại học Công trình Cáp Nhĩ Tân đăng ký thành lập. Ngày 23 tháng 10 cùng năm, bắt đầu kì học đầu tiên bắt buộc học lớp tiếng Mãn sơ cấp ở Đại học này. Tháng 11, giáo sư tiếng Mãn Triệu A Bình của Đại học Hắc Long Giang nhận lời mời đến Đại học Công trình mở tọa đàm về tiếng Mãn. Ngày 4 tháng 9 năm 2006, bắt đầu kì học thứ hai bắt buộc lớp tiếng Mãn sơ cấp.

Ngày 15 tháng 5 năm 2006, Hội sinh viên yêu thích Mãn ngữ của Đại học Nông Nghiệp Đông Bắc đăng ký thành lập. Ngày 27 tháng 5 bắt đầu kì học đầu tiên giáo dục bắt buộc Mãn ngữ sơ cấp.

Tháng 6 năm 2008, Học viện Khoa Học Kỹ Thuật của A Thành, Cáp Nhĩ Tân đưa Mãn ngữ chuyên nghiệp vào phạm vi tuyển sinh. Trở thành học viện đầu tiên của Trung Quốc mở lớp dạy Mãn ngữ chuyên nghiệp, kỳ đầu tiên chiêu sinh 30 người.[8]

Tháng 6 năm 2010, Đại học Sư Phạm Đông Bắc mở Hiệp hội Mãn văn Thư pháp, hội viên của hiệp hội là 70 người.

Đài Loan

[sửa | sửa mã nguồn]

Hậu duệ người Mãn ở Đài Loan sử dụng tiếng Mãn khá ít.

Chữ Mãn nguyên bản có tất cả 6 nguyên âm, 19 phụ âm. Nguyên âm phân làm 3 loại là âm, dương và trung tính. Những nguyên âm cùng loại thì phối hợp hài hòa với nhau. Cách viết tiếng Mãn đối với tiền tố, trung tố và hậu tố có sự khác biệt.

Âm môi Âm chân răng Âm vòm Âm ngạc mềm / Âm lưỡi gà
Âm mũi m /m/ n /n/ ng /ŋ/
Âm bật

Âm tắc xát

Âm bật hơi p /pʰ/ t /tʰ/ c (q) /ʧʰ/ k /kʰ, qʰ/
Âm không bật hơi b /p/ d /t/ j /ʧ/ g /k, q/
Phụ âm xát f /f/ s /s/ š (x) /ʃ/ h /x, χ/
Âm rung r /r/
Âm tiếp cận w /w/ l /l/ y /j/

Trong đó âm ngạc mềm và âm lưỡi gà trong tiếng Mãn không đối lập (/kʰ, k, x/ ghép với e, i, u, /qʰ, q, χ/ ghép với a, o, ū (v)), nhưng trong tiếng Trung lại đối lập (/kʰ, k, x/ có thể ghép với a, o, ū (v), chuyển thành k῾ (kʼ), g῾ (gʼ), h῾ (hʼ)). Ngoài ra còn có 3 phụ âm vay muọn là: ts' (c) /ʦʰ/, dz (z) /ʦ/ và ž (rʼ) /ʒ/.

Nguyên âm

[sửa | sửa mã nguồn]
Trước Giữa Sau
i /i/ u /u/
e /ɤ/ ū (v) /ʊ/
a /ɑ/ o /ɔ/

a, o và ū (v) là nguyên âm dương tính, e là nguyên âm âm tính, i và u là nguyên âm trung tính.

Kết cấu âm tiết

[sửa | sửa mã nguồn]

Chữ viết

[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếng Mãn sử dụng chữ Mãn. Chữ Mãn nguyên là chữ Mông Cổ truyền thống, mà chữ Mông Cổ truyền thống có thể ngược dòng tìm hiểu đến chữ của người Hồi Hột (tức Chữ Duy Ngô Nhĩ cổ). Chuyển tả của chữ Mãn có rất nhiều cách như Mục Lân Đức chuyển tả (Möllendorff), Thái Thanh chuyển tả,... Tiếng Nữ Chân mà tổ tiên người Nữ Chân sử dụng nguyên là chữ Khiết Đan, mà chữ Khiết Đan lại có nguồn gốc từ chữ Hán. Vì vậy chữ Nữ Chân và chữ Mãn vốn không có liên hệ với nhau.

Chữ Hán cũng có thể dùng để biểu đạt chữ Mãn. Có một số nguyên âm và phụ âm đầu của chữ Mãn có thể biểu đạt tiếng Hán. Một số âm cuối như t, n, ng và o có thể sử dụng giống như vậy. Nhưng các âm cuối như r, k, s, t, p, i và m là biểu đạt cho 2 âm tiếng Hán ghép lại với nhau, mà trong tiếng Phổ thông, những âm tiết này không phát âm âm cuối. Vì dụ như, nếu chữ Mãn là "am" thì phiên sang chữ Hán lại là "a-muh" (a mục).

Ngữ pháp

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ vựng của tiếng Mãn gồm có danh từ, đại từ, động từ, tính từ, phó từ, số từ, từ đứng sau, liên từ, từ tượng thanh, từ tượng hình, từ cảm thán, trợ từ. Trong đó số từ phân làm số đếm và số thứ tự, tính từ chia làm nhiều cấp độ khác nhau. Động từ chia làm các thì, các trạng thái, các mục đích sử dụng khác nhau như thì hiện tại, thì quá khứ, thì tương lai, trạng thái chủ động và bị động, trạng thái sử dụng, dùng để trần thuật, cầu khiến, hay động từ của câu điều kiện.

Câu ghép của tiếng Mãn tương đối phức tạp, ngữ pháp khác biệt rất lớn so với tiếng Hán, nhưng lại tương đối giống với ngữ hệ Altai.

Bị ảnh hưởng bởi các ngôn ngữ khác

[sửa | sửa mã nguồn]

Một số từ ngữ

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ đơn

[sửa | sửa mã nguồn]

Thứ tự là Chuyển tả tiếng Mãn (phiên âm tiếng Hán - phiên âm Hán Việt): nghĩa của từ

  • je (嗻 - zhē - cha): Là, tuân mệnh (người dưới trả lời người trên)
  • ja (喳 - zhā - tra): ti tiện, khinh bỉ
  • arsalan (阿尔薩蘭 - a nhĩ tát lan): sư tử
  • tasha (它斯哈 - tha tư cáp): hổ
  • ihan (伊汗 - y hãn): trâu
  • gūlmahūn (箍尔妈混 - cô nhĩ mụ hồn): thỏ
  • muduri (母督理 - mẫu đốc lý): rồng
  • morin (某林 - mỗ lâm): ngựa
  • sain (骰應 - đầu ưng): tốt
  • dodo (多鐸 - đa đạc): thai nhi
  • akū/akv (阿庫 - a khố): chưa
  • balai (巴來伊 - ba lai y): càn rỡ
  • bi (楅 - bức): tôi
  • bonio/boniu (播妞 - bá nữu): khỉ
  • cahu/qahv (叉虎 - xoa hổ): người đàn bà chanh chua
  • fujin (福晉 - Phúc tấn): Phu nhân
  • ama (阿瑪 - a mã): phụ thân
  • mafa (玛法 - mã pháp): lão gia, ông nội
  • haha (哈哈 - cáp cáp): đàn ông
  • hehe (呵呵 - a a): phụ nữ
  • hala (哈拉 - cáp lạp): họ
  • aha (阿哈 - a cáp): nô tài
  • hehereku (呵呵了庫 - a a liễu khố): ẻo lả
  • ilan (以藍 - dĩ lam): số 3
  • muse (母色 - mẫu sắc): chúng ta
  • nadanju (那丹朱 - na đan chu): số 10, khi chỉ người thường viết Na Đan Châu (那丹珠), cùng loại còn có trát côn châu (札昆珠 - 80) và ô vân châu (乌云珠 - 90)
  • saksaha damin (仨克仨哈 丹敏 - ba khắc ba cáp đan mẫn): "Tiếp bạch điêu", con điêu (kên kên) nửa thân trên màu đen, nửa thân dưới màu trắng, cũng là giải thích chính xác cho bức họa "Tuyết điểm điêu" của danh họa Lang Thế Ninh triều Thanh.
  • waka (挖卡 - oạt tạp): không phải
  • ombi (窝姆楅 - oa mỗ bức): có thể
  • hadaba (哈搭巴 - cáp cáp ba): xu nịnh, a dua

Địa danh

[sửa | sửa mã nguồn]

Một số địa danh ở Liêu Ninh, Hắc Long GiangCát Lâm cũng là do âm Hán của tiếng Mãn dịch thành.

Một số địa danh của Nga ở phía Đông cũng xuất phát từ Mãn ngữ

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Lague, David (ngày 16 tháng 3 năm 2007). “China's Manchu speakers struggle to save language”. The New York Times.
  2. ^ Nordhoff, Sebastian; Hammarström, Harald; Forkel, Robert; Haspelmath, Martin biên tập (2013). “Manchu”. Glottolog. Leipzig: Max Planck Institute for Evolutionary Anthropology.
  3. ^ 《欽定滿洲祭神祭天典禮》〈上諭〉:「若我愛新覺羅姓之祭神,則自大內以至王公之家,皆以祝辭為重。但昔時司祝之人俱生於本處,幼習國語,凡祭神祭天背鐙獻神報祭求福,及以麫猪祭天去祟祭田苗神祭馬神,無不斟酌事體,編為吉祥之語以禱祝之。厥後司祝者,國語俱由學而能,互相授受,扵贊祝之原字原音,漸致淆舛。」
  4. ^ 哈斯巴特尔. 蒙古语和满洲语研究(蒙古文). 呼和浩特: 内蒙古大学出版社. 1991.
  5. ^ Ma, Yin: Die nationalen Minderheiten in China, p. 250. Verlag für fremdsprachige Literatur, Beijing, 1990, ISBN 7-119-00010-1.
  6. ^ Asiatic journal and monthly miscellany. PRINTED BY J. L. COX AND SONS, 75, GREAT QUEEN STREET, LINCOLN'S-INN FIELDS: Wm. H. Allen & Co. 1837. tr. 197. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2012.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  7. ^ Asiatic journal and monthly miscellany. PRINTED BY J. L. COX AND SONS, 75, GREAT QUEEN STREET, LINCOLN'S-INN FIELDS: Wm. H. Allen & Co. 1837. tr. 198. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2012.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  8. ^ 全国首开满语中专专业 Lưu trữ 2008-12-04 tại Wayback Machine
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Mai - Khi tình yêu không chỉ đơn thuần là tình ~ yêu
Mai - Khi tình yêu không chỉ đơn thuần là tình ~ yêu
Cuộc đời đã khiến Mai không cho phép mình được yếu đuối, nhưng cũng chính vì thế mà cô cần một người đồng hành vững chãi
Sinh vật mà Sam đã chiến đấu trong đường hầm của Cirith Ungol kinh khủng hơn chúng ta nghĩ
Sinh vật mà Sam đã chiến đấu trong đường hầm của Cirith Ungol kinh khủng hơn chúng ta nghĩ
Shelob tức Mụ Nhện là đứa con cuối cùng của Ungoliant - thực thể đen tối từ thời hồng hoang. Mụ Nhện đã sống từ tận Kỷ Đệ Nhất và đã ăn thịt vô số Con Người, Tiên, Orc
Nhân vật Yui trong Jigokuraku
Nhân vật Yui trong Jigokuraku
Yui (結ゆい) là con gái thứ tám của thủ lĩnh làng Đá và là vợ của Gabimaru.
20 Git command mà mọi lập trình viên cần biết
20 Git command mà mọi lập trình viên cần biết
20 Git command mà tôi dùng trong mọi lúc