Tomasz Bagiński

Tomasz Bagiński
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
10 tháng 1, 1976
Nơi sinh
Białystok
Giới tínhnam
Quốc tịchBa Lan
Nghề nghiệpnhà sản xuất phim, đạo diễn phim, nghệ sĩ diễn hoạt, nhà biên kịch
Sự nghiệp nghệ thuật
Đào tạoĐại học Công nghệ Warszawa
Giải thưởngHuân chương Polonia Restituta hạng 5
Website

Tomasz Bagiński (sinh ngày 10 tháng 1 năm 1976 tại Białystok) là nghệ sĩ vẽ tranh minh họa, hoạt họa, nhà sản xuất và đạo diễn người Ba Lan. Bagiński là một họa sĩ tự học.

Học vấn

[sửa | sửa mã nguồn]

Bagiński đã học ngành kiến trúc tại Đại học Công nghệ Warsaw.

Hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ phim đầu tiên của anh Rain đã giành được một số giải thưởng và trở thành giấy thông hành cho công ty Platige Image, trong đó anh là giám đốc sáng tạo. Từ năm 1999 đến năm 2002, anh thực hiện bộ phim ngắn đầu tay của mình, mang tên The Cathedral . Vào năm 2002, anh đã giành được giải nhất tại SIGGRAPH (lễ hội lớn nhất về hoạt hình và hiệu ứng đặc biệt), và một năm sau đó, anh được đề cử cho Giải Oscar ở hạng mục phim hoạt hình ngắn xuất sắc nhất.

Năm 2004, Bagiński thực hiện bộ phim ngắn thứ hai của mình, có tên là Fallen Art . Năm 2005, anh nhận được một giải thưởng khác tại lễ hội SIGGRAPH, trở thành nghệ sĩ duy nhất trong lịch sử giành được hai giải thưởng chính. Fallen Art cũng đã giúp anh giành được Giải BAFTA cho phim hoạt hình hay nhất và Giải thưởng lớn (Grand Prix - giải thưởng quan trọng thứ hai) cho phim ngắn kỹ thuật số tại Liên hoan phim Giải Kim Mã 2005 (đồng nhận giải với Jarek Sawko và Piotr Sikora) cũng như Giải Prix ​​Ars Electronica.

Bagiński cũng đã tạo ra các đoạn phim điện ảnh cho trò chơi máy tính The Witcher dựa trên các cuốn sách của Andrzej Sapkowski và sẽ trở thành đồng đạo diễn cho Netflix series dựa trên The Witcher của hai công ty Platige Image và Sean Daniel.[1][2][3]

Anh là tác giả thiết kế của tất cả các bìa sách của Jacek Dukaj, bao gồm cả cuốn tiểu thuyết mang tên Ice.

Năm 2009, anh đạo diễn một phim ngắn khác, The Kinematograph, dựa trên truyện tranh của họa sĩ Mateusz Skutnik trong album Revolutions: Monochrome. Ngoài các dự án của riêng mình, Bagiński còn làm đạo diễn cho các chương trình quảng cáo và sân khấu. Anh đã xuất bản trên nhiều tạp chí thương mại, từ Hoa Kỳ đến Trung Quốc và Nhật Bản.

Các bộ phim

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Rain (1998)
  • The Cathedral (2002)
  • Fallen Art (2004)
  • The Witcher (Phần giới thiệu và phần kết thúc trò chơi) (2007)
  • Seven Gates of Jerusalem (2009)
  • The Kinematograph (2010)
  • The Animated History of Poland (2010)
  • Move Your Imagination - EURO 2012 UEFA (2011)
  • The Witcher 2 (Phần giới thiệu trò chơi) (2011)
  • The Witcher 3 (Phần giới thiệu trò chơi) (2015)
  • Hardkor 44
  • Cyberpunk 2077 (Phần giới thiệu trước) (2013) [4]
  • Ambition (2014)
  • 2015: Polish Legends: The Dragon
  • 2015: Polish Legends: Twardowsky
  • 2016: Polish Legends: Twardowsky 2.0
  • 2016: Polish Legends: Operation Basilisk
  • 2016: Polish Legends: Jaga
  • 2017: The Unconquered
  • 2019: The Witcher (Nhà sản xuất điều hành)
  • 2020: Into the Night (Nhà sản xuất điều hành)
  • TBA: Saint Seiya[5]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Platige Image [@PlatigeImage] (ngày 17 tháng 5 năm 2017). “We started production of the series based on "The Witcher" in coop. with @NetflixUS and SeanDanielCompany. Tomek...” (Tweet) – qua Twitter.
  2. ^ “The Witcher Saga: has Netflix found its Game of Thrones?”. Telegraph.co.uk. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2017.
  3. ^ “Platige Image - THE WITCHER Saga on Netflix”. Platige.com. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2017.
  4. ^ “Cyberpunk 2077 on Behance”. Behance. ngày 15 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2013.
  5. ^ “Saint Seiya Manga Gets Live-Action Hollywood Film”. Animenewsnetwork.com. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2017.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Sơ lược về White Room - Classroom of the Elite
Sơ lược về White Room - Classroom of the Elite
White Room (ホワイトルーム, Howaito Rūmu, Việt hoá: "Căn phòng Trắng") là một cơ sở đào tạo và là nơi nuôi nấng Kiyotaka Ayanokōji khi cậu còn nhỏ
Valentine đen 14/4 - Đặc quyền bí mật khi em chưa thuộc về ai
Valentine đen 14/4 - Đặc quyền bí mật khi em chưa thuộc về ai
Giống như chocolate, những món ăn của Valentine Đen đều mang vị đắng và ngọt hậu. Hóa ra, hương vị tình nhân và hương vị tự do đâu có khác nhau nhiều
Giới thiệu Anime/Manga Kaiju No.8 - Tân binh tiềm năng
Giới thiệu Anime/Manga Kaiju No.8 - Tân binh tiềm năng
Kaiju No.8 đạt kỉ lục là Manga có số lượng bản in tiêu thụ nhanh nhất với 4 triệu bản in
Lịch sử về Trấn Linh & Những vụ bê bối đình đám của con dân sa mạc
Lịch sử về Trấn Linh & Những vụ bê bối đình đám của con dân sa mạc
Trong khung cảnh lầm than và cái ch.ết vì sự nghèo đói , một đế chế mang tên “Mặt Nạ Đồng” xuất hiện, tự dưng là những đứa con của Hoa Thần