Trường Kinh doanh Harvard (HBS - Harvard Business School) là một trong những trường kinh doanhsau đại học tại Hoa Kỳ của Viện Đại học Harvard ở Boston, bang Massachusetts. Nó được xếp hạng là uy tín trong số các trường kinh doanh hàng đầu trên thế giới [2][3] và phần lớn cung cấp chương trình MBA toàn thời gian, các chương trình tiến sĩ liên quan đến quản lý và nhiều chương trình giáo dục điều hành.
Vào ngày 1 tháng 10 năm 1908, trường kinh doanh Harvard được thành lập,[4] các khoa bắt đầu hoạt động dưới thời Dean Edwin F. Gay với 15 giảng viên và 80 sinh viên.[5] Địa điểm đầu tiên là Cambridge, Massachusetts. Năm 1927, khoa chuyển qua sông Charles đến vị trí hiện tại ở Allston, một quận của Boston. Các sinh viên nữ lần đầu tiên được nhận vào chương trình MBA chính quy vào năm 1965. Hiện có khoảng 65,000 cựu sinh viên của Trường Kinh doanh Harvard.[6]
Đội ngũ giảng viên của trường được chia thành 10 đơn vị học trình: Kế toán và Quản lý; Kinh doanh, Chính phủ và Kinh tế Quốc tế; Quản lý Doanh nhân; Tài chính; Quản lý chung; Tiếp thị; Đàm phán, Tổ chức & Thị trường; Hành vi tổ chức; Chiến lược; và Quản lý Công nghệ và Hoạt động.[7]
Chương trình Quản lý Nâng cao (gọi tắt là AMP - The Advanced Management Program) là một chương trình công dân kéo dài bảy tuần dành cho các giám đốc điều hành cấp cao với mục đích đã nêu là "Chuẩn bị cho Cấp độ Lãnh đạo Cao nhất".[8] Sau khi HBS đình chỉ chương trình MBA từ năm 1943–1946,[9] để đào tạo lãnh đạo quân sự trong sáu trường thời chiến,[10] AMP xuất hiện vào năm 1945 từ Trường Thống kê Lực lượng Không quân với tư cách là lãnh đạo cấp cao dân sự của chương trình lãnh đạo do HBS.[11] Ngày nay, AMP được tổ chức hai lần một năm, mỗi phiên gồm khoảng 170 giám đốc điều hành cấp cao. Ngược lại với chương trình MBA, AMP không có điều kiện tiên quyết về giáo dục chính thức.[12] Việc đăng ký vào AMP là có chọn lọc và dựa trên hồ sơ theo dõi của ứng viên với tư cách là giám đốc điều hành cấp cao và người tham khảo. Sau khi hoàn thành, những người tham gia AMP được giới thiệu vào cộng đồng cựu sinh viên tại HBS.
HBS thành lập 9 trung tâm nghiên cứu toàn cầu và 4 văn phòng khu vực[13] và hoạt động thông qua các văn phòng ở Châu Á-Thái Bình Dương (Hồng Kông, Thượng Hải, Singapore), Hoa Kỳ (Khu vực Vịnh San Francisco, California), Châu Âu (Paris), Nam Á (Ấn Độ),[14] Trung Đông và Bắc Phi (Dubai, Istanbul, Tel Aviv), Nhật Bản và Mỹ Latinh (Buenos Aires, Thành phố Mexico, São Paulo).[15][16]
^“Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2020. Đã bỏ qua tham số không rõ |werk= (gợi ý |work=) (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |zugriff= (gợi ý |access-date=) (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |titel= (gợi ý |title=) (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |archiv-url= (gợi ý |archive-url=) (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |sprache= (gợi ý |language=) (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |archiv-datum= (gợi ý |archive-date=) (trợ giúp); Chú thích có các tham số trống không rõ: |hrsg= và |offline= (trợ giúp)
^Harvard Business School. Academic Units. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2018.
Anteby, Michel. Manufacturing Morals: The Values of Silence in Business School Education. (University of Chicago Press, 2013), a faculty view
Bridgman, T., Cummings, S & McLaughlin, C. (2016). Re-stating the case: How revisiting the development of the case method can help us think differently about the future of the business school. Academy of Management Learning and Education, 15(4): 724-741
Broughton, P.D. Ahead of the Curve: Two Years at the Harvard Business School. (Penguin Press, 2008), a memoir
Cohen, Peter. The gospel according to the Harvard Business School. (Doubleday, 1973)
Copeland, Melvin T. And Mark an Era: The Story of the Harvard Business School (1958)
Cruikshank, Jeffrey. Shaping The Waves: A History Of Entrepreneurship At Harvard Business School . (Harvard Business Review Press, 2005)
Smith, Robert M. The American Business System: The Theory and Practice of Social Science, the Case of the Harvard Business School, 1920–1945 (Garland Publishers, 1986)
Yogev, Esther. "Corporate Hand in Academic Glove: The New Management's Struggle for Academic Recognition—The Case of the Harvard Group in the 1920s," American Studies International (2001) 39#1 online
Thực tế là, ngay cả khi còn là lính mới tò te, hay đã ở vai trò đồng sáng lập của một startup như hiện nay, luôn có những lúc mình cảm thấy chán làm việc vcđ