Trại tị nạn Hồng Kông

Dãy nhà tại trại tị nạn Bạch Thạch, ảnh chụp năm 2008

Trại tị nạn Hồng Kông là từ thường dùng để chỉ những trung tâm giam giữ (tiếng Anh: Vietnamese Migrants Detention Centres - VMDCs, tiếng Trung: 越南船民羈留中心; Hán-Việt: Việt Nam thuyền dân cơ lưu trung tâm) được Sở Trừng giáo (tiếng Anh: Correctional Services Department - CSD, tiếng Trung: 懲教署; Hán-Việt: Trừng giáo thự) ở Hồng Kông thành lập dành cho người tị nạn Việt Nam giai đoạn từ năm 1978 đến năm 1998. Năm 1978, tiền thân của CSD là Sở Tù giam thành lập trại giam đầu tiên gần sân bay Khải Đức tại Cửu Long. Sở đã phối hợp với các cơ quan khác để tiếp nhận thuyền nhân Việt Nam, thành lập đơn vị tị nạn và tuyển dụng nhân viên tạm thời để quản lý các công việc liên quan.[1] Khi chính phủ Hồng Kông gia tăng hành động đối phó vấn đề người tị nạn, siết chặt hạn chế và trục xuất trả về Việt Nam, số người tại trại giảm dần và giải thể theo thời gian. Trại giam cuối cùng gần Hồ chứa Vạn Nghi tại Tây Cống đóng cửa năm 1998.[2]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]
Phòng trưng bày số 6 của Sở Trừng giáo Hồng Kông về nhiệm vụ thuyền nhân Việt Nam, bên phải ảnh có bản đồ phân bố các trại tị nạn

Những người tị nạn Việt Nam đầu tiên đến Hồng Kông sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Thuyền nhân được đưa đến trại tị nạn dân sự trên đường Chatham trước khi chuyển đi, trại này chỉ hoạt động đến năm 1977.[3] Đến năm 1979, làn sóng bài Hoa tại Việt Nam khiến một lượng lớn thuyền nhân phải chạy sang các lãnh thổ châu Á khác. Chỉ trong 20 năm có khoảng 203.000 thuyền nhân trái phép đến đồng bằng sông Châu Giang.[4] Năm 1978, chính quyền Hồng Kông quyết định chuyển căn cứ Không quân Hoàng gia cũ thành Trại tị nạn Khải Đức nằm dưới quyền Sở Tù giam quản lý. Kể từ đó, Sở tham gia vào việc quản lý người Việt Nam di cư.[5] Cùng năm đó, Sở Trại giam đã giải thể Trung tâm cai nghiện Ma Bộ Bình ở Đường Phúc, Đại Tự Sơn để mở thêm một trại. Các nhân viên công lực vốn đang quen với việc quản lý tù nhân, phải thay đổi với đối tượng mới từ xa đến không phải là tội phạm, trong đó có phụ nữ và trẻ em, cần được đối xử nhân đạo.[1]

Năm 1979, sự kiện 2.700 người kẹt trên tàu Skyluck làm vấn đề thêm trầm trọng. Năm ấy cũng chứng kiến số người đến tị nạn lên đến kỷ lục hơn 68.700.[6][7] Khi lượng người tị nạn gia tăng, nhà chức trách Hồng Kông chuyển các nhà tù và doanh trại cũ của quân đội Anh thành trại tị nạn nhưng vẫn không đáp ứng nổi tất cả.[8]

Năm 1982, chính quyền Hồng Kông thay đổi quy định những thuyền nhân nhập cảnh sau ngày 1 tháng 7 phải vào trại cấm, không được phép ra ngoài hay rời trại đi làm. Sở Trừng giáo cải tổ cũng chuyển một số nhà tù thành trại cấm.[9] Trong cùng năm, Sở Trừng giáo thành lập đơn vị chuyên trách và bắt đầu tuyển dụng thêm nhân viên tạm thời để tham gia quản lý người tị nạn. Những nhân viên này được đào tạo chuyên sâu trong hai tuần về các quy định nhập cư, quy chế trại, kỹ năng tuần hành và quản lý đám đông, đặc biệt là tiếng Việt giao tiếp. Đến cuối năm 1998, Sở đã thuê tới 1.813 nhân viên tạm thời.[10]

Do là "cảng tị nạn đầu tiên", số lượng thuyền nhân đến Hồng Kông liên tục tăng trong thập niên 1980, trung bình mỗi năm phải đón 20.000 đến 30.000 người mới làm đầy ắp các trại của Sở Trừng giáo.[11] Sở buộc phải thành lập thêm trại giam, thậm chí chỉ định các tòa nhà công nghiệp ở Đồn Môn để đáp ứng nhu cầu chỗ ở cấp thời cho thuyền nhân.[10] Năm 1988, nhà cầm quyền bãi bỏ chính sách trại cấm, thay thế bằng chính sách sàng lọc khiến Sở Trừng giáo đặt ra vị trí "Trợ lý sở trưởng (sự vụ thuyền nhân Việt Nam)".[12] Mặt khác, chính quyền Hồng Kông thiết lập các trại lớn tại Bạch Thạch ở Mã An Sơn và Hồ chứa Vạn Nghi ở Tây Cống tập trung số lượng đông thuyền nhân.[10]

Thập niên 1990, chính quyền Hồng Kông bắt đầu thực hiện các hoạt động hồi hương có trật tự để đảm bảo thuyền nhân trở về Việt Nam an toàn, số lượng liền suy giảm. Tuy nhiên, một số thuyền nhân không muốn hồi hương mà mong đợi được định cư ở nước thứ ba. Họ bất mãn và chống đối, thậm chí bùng phát bạo loạn.[13] Nổi tiếng nhất là trại Bạch Thạch với hai bạo loạn nổ ra năm 1994 và 1996.[14][15] Nổi tiếng thứ nhì là vụ cảnh sát đàn áp bạo loạn trại Thạch Cương khiến 24 người tị nạn thiệt mạng năm 1991.[16] Quá trình hồi hương diễn ra suôn sẻ, các trại tị nạn dần bị đóng cửa và quay lại mục đích sử dụng lúc trước. Năm 1997, chức vụ "Trợ lý sở trưởng (sự vụ thuyền nhân Việt Nam)" bị bãi bỏ.[17] Đến năm 1998, trại Vạn Nghi tại Tây Cống chính thức đóng cửa, chấm dứt hoạt động về thuyền nhân Việt Nam của Sở Trừng giáo.[18]

Danh sách

[sửa | sửa mã nguồn]

Đảo Hồng Kông

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Quận Địa điểm Ghi chú T.k
Viện Trừng giáo Cape Collinson
(Khu tị nạn)
tiếng Anh: Cape Collinson Correctional Institution
tiếng Trung: 歌連臣角懲教所; Hán-Việt: Ca Liên Thần Giác trừng giáo sở
Quận Đông 123 đường Cape Collinson, Trại Loan Năm 1979, bắt đầu sử dụng một phần diện tích giam giữ người Việt Nam, gọi là "Trại tị nạn Cape Collinson" và tiếp tục được chuyển đổi thành trại cấm năm 1983. Giai đoạn ấy, trại bị đóng cửa hai lần nhưng rồi trở thành một trại tị nạn chính thức. [9]
Trại Đảo Xanh
tiếng Anh: Green Island Reception Centre
tiếng Trung: 青洲羈押中心; Hán-Việt: Thanh Châu cơ áp trung tâm
Quận Trung Tây Đảo Xanh (Thanh Châu) Năm 1987, một đoàn thuyền nhân Việt Nam từ Trung Quốc đại lục sang Hồng Kông. Đội Dân an ngay lập tức sắp xếp cho họ ở trung tâm Thanh Châu, từ đó chuyển đến các cơ của Sở Trừng giáo. Sau năm 1998, trung tâm tiếp tục được dùng để tiếp nhận những người nhập cư bất hợp pháp. Năm 2011, trung tâm bị đóng cửa hoàn toàn và bỏ trống đến nay. [19]

Cửu Long

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Quận Địa điểm Ghi chú T.k
Trại tị nạn đường Quảng Đông
tiếng Anh: Canton Road refugee camp
tiếng Trung: 廣東道難民營; Hán-Việt: Quảng Đông đạo nan dân doanh
Du Tiêm Vượng Nhà kho tại bến tàu chính quyền, đường Quảng Đông, Tiêm Sa Chủy (quanh trạm Austin ngày nay) Địa điểm tái định cư khi bắt đầu cuộc khủng hoảng thuyền nhân Việt Nam, trại viên sau đó được gửi đến trại Thâm Thủy Bộ và trại tị nạn đường Chatham do Đội Dân an điều hành. [4][20]
Trại tị nạn Khải Đức
tiếng Anh: Kai Tak refugee camp
tiếng Trung: 啟德難民營; Hán-Việt: Khải Đức nan dân doanh
Quan Đường 50-51 đường Quan Đường, vịnh Cửu Long
(nay là Caritas Family Crisis Support Centre [zh])
Sau khi quân đội Anh tại Hong Kong chuyển từ Khải Đức đến phi trường Thạch Cương năm 1978, một phần diện tích được dùng làm trại tị nạn. Năm 1989, quyền quản lý được chuyển cho Đội Dân an. [21]
Trại tị nạn Thâm Thủy Bộ
tiếng Anh: Sham Shui Po refugee camp
tiếng Trung: 深水埗難民營; Hán-Việt: Thâm Thủy Bộ nan dân doanh
Thâm Thủy Bộ 420 đường Lệ Chi Giác, Thâm Thủy Bộ
(nay là Lệ An ThônTrung tâm Tây Cửu Long)
Năm 1979, chính quyền Hồng Kông sửa lại một phần doanh trại Thâm Thủy Bộ cũ thành trại tị nạn. Năm 1989, trại đóng cửa để tái thiết. [22]
Tòa nhà Phong Lực
tiếng Anh: Phoenix House
tiếng Trung: 豐力樓; Hán-Việt: Phong Lực lâu
3 đường Lũng Hân, Đại Oa Bình Đợt thuyền nhân đầu tiên ở đây cho đến khi bị buộc phải hồi hương năm 1989. [23]

Tân Giới

[sửa | sửa mã nguồn]
Tên Quận Địa điểm Ghi chú T.k
Trại Chi Ma Loan
(Thượng và hạ trại)
tiếng Anh: Chi Ma Wan Detention Centre
tiếng Trung: 芝麻灣羈留中心; Hán-Việt: Chi Ma Loan cơ lưu trung tâm
Li Đảo 330, 333 đường Chi Ma Loan, Đại Tự Sơn
(nay là cơ sở đào tạo của Sở Trừng giáo)
Sau vụ tàu Skyluck năm 1979, chính quyền Hồng Kông chọn trại giam Chi Ma Loan làm nơi cư trú cho dân tị nạn. Sở Tù giam giải phóng mặt bằng để chuyển thành trung tâm giam giữ, khi ấy gọi là Thượng Doanh. Năm 1982, phân trại tị nạn dựng trên sân bóng phía Tây Bắc trại giam Chi Ma Loan bắt đầu chính thức đi vào hoạt động. Năm 1994, trại tị nạn ngừng hoạt động. Thượng trại đổi lại thành Viện Trừng giáo Chi Ma Loan, còn hạ trại trở thành Trung tâm cai nghiện Chi Ma Loan. [7][24]
Trại Hỷ Linh Châu
tiếng Anh: Hei Ling Chau Detention Centre
tiếng Trung: 喜靈洲羈留中心; Hán-Việt: Hỷ Linh Châu cơ lưu trung tâm
Li Đảo Đường Hỷ Linh Châu, Hỷ Linh Châu
(nay là Viện Trừng giáo Hỷ Linh Châu)
Trại được xây dựng ở phía đông Hỷ Linh Châu năm 1982, rồi đóng cửa năm 1994. Sau đó đổi thành Viện Trừng giáo Hỷ Linh Châu. [25]
Trại Vạn Nghi
tiếng Anh: High Island Detention Centre
tiếng Trung: 萬宜羈留中心; Hán-Việt: Vạn Nghi cơ lưu trung tâm
Tây Cống Đập Tây của Hồ chứa Vạn Nghi
(nay là Trung tâm thể thao dưới nước Kim Sang Hưng)
Ban đầu do Cảnh sát Hồng Kông quản lý, chuyển giao cho Sở Trừng giáo tiếp quản từ năm 1991. Việc xây dựng bị trì hoãn hai tháng sau khi cư dân Tây Cống lo ngại và tiến hành họp bàn tại đây. Trại mở cửa năm 1989 và đóng cửa tháng 5 năm 1998. Tổng cộng hơn 20.000 thuyền nhân từng bị giam giữ tại đây. [26][27]
Trại La Hồ
tiếng Anh: Lo Wu Detention Centre
tiếng Trung: 羅湖羈留中心; Hán-Việt: La Hồ cơ lưu trung tâm
Quận Bắc 163 đường Thượng Hương, Thượng Thủy
(nay là Viện Trừng giáo La Hồ)
Tiền thân là doanh trại La Hồ, chuyển thành trại tị nạn năm 1989, đến năm 1997 thì đóng cửa và đổi thành Viện Trừng giáo La Hồ. [28][29]
Trại Lệ Cố
tiếng Anh: Nei Kwu Detention Centre
tiếng Trung: 勵顧羈留中心; Hán-Việt: Lệ Cố cơ lưu trung tâm
Li Đảo Đường Hỷ Linh Châu, Hỷ Linh Châu
(nay là Viện Trừng giáo Lệ Cố)
Ngoài trại Hỷ Linh Châu, Sở Trừng giáo cũng chuyển đổi Trại cải tạo Lệ Cố Châu thành Trại Lệ Cố. Năm 1997 đóng cửa trại và dự định chuyển thành trung tâm cai nghiện ma túy nhưng bị trì hoãn đến tận năm 2002 mới thực hiện. [29]
Tòa nhà công nghiệp Tân Ích
tiếng Anh: Sun Yick Industrial Building
tiếng Trung: 新益工業大廈; Hán-Việt: Tân Ích công nghiệp đại hạ
Đồn Môn 1 khu Tân Ích, khu công nghiệp Đồn Môn
(nay là nhà kho Sở Hậu cần)
Năm 1987, Đội Dân an bố trí cho đoàn thuyền nhân từ đại lục ở Tòa nhà Công nghiệp Tân Ích đang bỏ trống tại Đồn Môn (cùng lúc Trại Đảo Xanh cũng đồng ý tiếp nhận) trước khi bàn giao cho Sở Trừng giáo. Địa điểm tạm thời này hoạt động khoảng hai năm. Ngày 21 tháng 5 năm 1990, trại được giao lại cho Sở Gia cư, đến ngày 31 tháng 8 thì được sáp nhập vào Trại giam Hổ Địa. Ngày nay là một trong hai nhà kho của Sở Hậu cần Hồng Kông. [20][30][31]
Trại Đường Phúc
tiếng Anh: Tong Fuk Detention Centre
tiếng Trung: 塘福羈留中心; Hán-Việt: Đường Phúc cơ lưu trung tâm
Li Đảo 31 đường Ma Bộ Bình, Đường Phúc, Đại Tự Sơn
(nay là Viện Trừng giáo Đường Phúc)
Một trong những trại tị nạn sớm nhất, từ năm 1978. [1]
Trại Đồn Môn
tiếng Anh: Tuen Mun Detention Centre
tiếng Trung: 屯門羈留中心; Hán-Việt: Đồn Môn cơ lưu trung tâm
Đồn Môn 8 khu Lĩnh Nam, đường Thanh Sơn Công, Đồn Môn
(nay nằm trong khuôn viên Đại học Lĩnh Nam)
Tiền thân là doanh trại Hổ Địa, trại mở cửa năm 1985 là một trại cấm. Năm 1990 được bàn giao cho Sở Gia cư chuyển thành trại mở. Trại là nguồn cảm hứng cho truyện ngắn Cọp đất của nhà văn Tây Tây kể về những đứa trẻ người Việt, về sau được đưa vào tuyển tập Thủ quyền. Bên ngoài tòa nhà học hiệu Lý Vân Cường của Đại học Lĩnh Nam vẫn còn một số mảnh thép gai từ trại giam cũ. [32]
Trại Bạch Thạch
(Trại Bạc Đầu)
tiếng Anh: Whitehead Detention Centre
tiếng Trung: 白石羈留中心; Hán-Việt: Bạch Thạch cơ lưu trung tâm
Sa Điền 1950 Mã An Sơn
(nay là sân golf Bạch Thạch và tư gia Vân Hải, Hoằng Bích)
Trại thành lập năm 1989 và nổi tiếng với nhiều bạo động. Trại chính thức đóng cửa năm 1997 sau khi hồi hương tất cả dân tị nạn. [33][34]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Sinclair & Lui Lai-Kuen 1999, tr. 44.
  2. ^ Sinclair & Lui Lai-Kuen 1999, tr. 46.
  3. ^ “Hongkong Refugee Camp 1975 - 2000” [Trại tị nạn Hồng Kông 1975-2000], Refugee Camps (bằng tiếng Anh), lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 9 năm 2019, truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2022
  4. ^ a b Sinclair & Lui Lai-Kuen 1999, tr. 41.
  5. ^ “History - 1950's to 1990s” [Lịch sử - thập niên 1950 tới 1990]. Hong Kong Correctional Services (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2022.
  6. ^ “The influx of Vietnamese boat people” [Dòng chảy thuyền nhân Việt Nam], Immigration Department, Hong Kong Government (bằng tiếng Anh), Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2007
  7. ^ a b Hoàng Tuấn Tuệ 2017, ch.3.
  8. ^ Sinclair & Lui Lai-Kuen 1999, tr. 43.
  9. ^ a b Vương Huệ Linh & Cao Quân Tuệ 2018, tr. 100–101.
  10. ^ a b c Sinclair & Lui Lai-Kuen 1999, tr. 45.
  11. ^ Sophia LAW, Suk Mun (2010). “從報章標題看越南船民在香港的歷史 (1975-2000)” [Lược sử thuyền nhân Việt Nam tại Hồng Kông qua điểm báo (1975-2000)]. 嶺南大學電子文庫 (bằng tiếng Trung).
  12. ^ Trịnh Thừa Long, 鄭承隆 (25 tháng 3 năm 2016). “興建禁閉營不切實際 難解假難民問題” [Dựng trại cấm là không thực tế, nan giải vấn đề dân tị nạn giả]. 香港01 (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2022.
  13. ^ Trần Chỉ Kỳ, 陳芷琪; Diêu Uyên Đình, 姚宛廷 (28 tháng 4 năm 2017). “投奔香港尋新生 越南難民憶當年” [Đến Hồng Kông tìm cuộc sống mới, dân tị nạn Việt Nam hồi tưởng quá khứ]. 大學線月刊 (bằng tiếng Trung) (130). 香港中文大學新聞及傳播學院. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2022.
  14. ^ Trịnh Chỉ Du, 鄭祉愉 (28 tháng 7 năm 2018). “【星期日人物】 海上出世的越南難民「金鷹」 出獄後的「第二次」終身監禁” [[Dân trí] Người tị nạn Việt Nam "Kim Ưng" sinh ra trên biển nhận bản án chung thân "thứ hai" sau khi mãn hạn tù]. 明報周刊 (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2022.
  15. ^ Hoàng Tuấn Tuệ, 黃雋慧 (1 tháng 7 năm 2017). “《不漏洞拉:越南船民的故事》-回歸前 北京施壓港英政府關閉難民設施” ["Không sơ hở: Câu chuyện thuyền nhân Việt Nam" - Bắc Kinh gây sức ép với chính quyền Hồng Kông và Anh phải đóng cửa các trại tị nạn trước khi chuyển giao]. 上報 (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2022.
  16. ^ Sinclair & Lui Lai-Kuen 1999, tr. 47.
  17. ^ “人事編制小組委員會討論文件” [Văn kiện thảo luận tiểu ban nhân sự]. 財務委員會 (bằng tiếng Trung). 立法會行政管理委員會. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2022.
  18. ^ “關閉萬宜羈留中心” [Đóng cửa trại giam Vạn Nghi] (bằng tiếng Trung). 香港特別行政區政府新聞處. 26 tháng 5 năm 1998. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 1 năm 2005. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2022.
  19. ^ Civil Aid Service Hong Kong 2012, tr. 26.
  20. ^ a b Civil Aid Service Hong Kong 2012, tr. 4.
  21. ^ Trần Sảnh Nhi, 陳倩兒 (5 tháng 8 năm 2017). “70後素人作家寫書打撈越南難民故事,將冰冷數字還原人性掙扎” [Nhà văn nghiệp dư sau thập niên 70 viết sách lưu giữ câu chuyện người Việt tị nạn, khôi phục những con số lạnh lùng cho đấu tranh nhân loại]. 端傳媒 (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2022.
  22. ^ Trần Thiên Quyền, 陳天權 (28 tháng 2 năm 2017). “深水埗公園的前生事跡” [Tích xưa về công viên Thâm Thủy Bộ]. 灼見名家 (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2022.
  23. ^ 《無線電視》午間新聞 (1989-12-12) [Bản tin trưa của TVB, 12-12-1989] (bằng tiếng Trung). Hồng Kông: TVB. 2 tháng 2 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2022.
  24. ^ Antiquities and Monuments Office 2009, tr. 2.
  25. ^ “喜靈洲囚犯種族大戰” [Cuộc chiến chủng tộc tù nhân Hỷ Linh Châu]. 星島日報 (bằng tiếng Trung). 3 tháng 1 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2022.
  26. ^ Clarke, Rachel (27 tháng 5 năm 1998). “High Island camp closes after 9 years” [Trại Vạn Nghi đóng cửa sau 9 năm]. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). Hong Kong. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2022.
  27. ^ Bale 1990, tr. 171.
  28. ^ “羅湖軍營改建越民中心擾原居民北區區會反對” [Trung tâm Việt Minh tái thiết từ doanh trại La Hồ làm khó dân địa phương, Hội đồng Quận Bắc phản đối]. 明報 (bằng tiếng Trung). 29 tháng 4 năm 1989.
  29. ^ a b “Public Works Subcommittee (Papers) 13 Nov 97” [Tiểu ban Công tác Công cộng (văn bản) ngày 13 tháng 11 năm 97]. Finance Comitee (bằng tiếng Anh). Legislative Council of Hong Kong. 12 tháng 11 năm 1997. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2022.
  30. ^ “虎地新益難民營昨起由房署接管 入境處同時將兩營改為開放營” [Sở Gia cư tiếp quản trại tị nạn Hổ Địa Tân Ích, Sở Di trú chuyển hai trại thành trại mở]. 大公報 (bằng tiếng Trung). 22 tháng 5 năm 1990.
  31. ^ “新益營月底關閉近千難民遷出 虎地新益兩營合併 房署增護衛員保安” [Trại Tân Ích đóng cửa vào cuối tháng, gần 1.000 người tị nạn chuyển ra ngoài, hai trại Hổ Địa Tân Ích sáp nhập, Sở Gia cư tăng cường nhân viên bảo vệ]. 華僑日報 (bằng tiếng Trung). 25 tháng 8 năm 1990.
  32. ^ Lĩnh nam đại học học sinh hội biên uỷ hội, 嶺南大學學生會編委會 (15 tháng 12 năm 2014). “尋找我們腳下的土地:虎地的前世今生” [Tìm đất dưới chân: Hổ Địa khi ấy bây giờ]. 香港獨立媒體. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2022.
  33. ^ “HKFP History: A brief history of Hong Kong's notorious Whitehead refugee detention centre” [Lịch sử HKFP: Lược sử trại tị nạn Whitehead khét tiếng ở Hong Kong]. Hong Kong Free Press (bằng tiếng Anh). 1 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2022.
  34. ^ “懲教事務” [Trừng giáo sự vụ]. 香港年報(香港 - 邁進新紀元) (bằng tiếng Trung). 香港特別行政區公務員事務局法定語文事務部. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2022.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Antiquities and Monuments Office (tháng 5 năm 2009), Archaeological Impact Assessment for Redevelopment of Chi Ma Wan Prison Area, Lantau Island [Đánh giá tác động khảo cổ để tái phát triển khu vực nhà tù Chi Ma Loan, Đại Tự Sơn] (PDF) (bằng tiếng Anh), Hong Kong: Leisure and Cultural Services Department, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2019, truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2022
  • Bale, Chris (1990). Wong, Richard Y.C.; Cheng, Joseph Y.S. (biên tập). The Other Hong Kong Report 1990 [Báo cáo về một Hồng Kông khác năm 1990] (bằng tiếng Anh). Hong Kong: Chinese University Press. ISBN 9789622014947.
  • Civil Aid Service Hong Kong (tháng 7 năm 2012), CIVIL AID SERVICE 60TH ANNIVERSARY COMMEMORATIVE PUBLICATION (1952-2012) [Ấn phẩm kỷ niệm 60 năm Đội Dân An (1952-2012)] (PDF) (bằng tiếng Anh), Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2019, truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2022
  • Vương Huệ Linh, 王惠玲; Cao Quân Tuệ, 高君慧 (21 tháng 12 năm 2018), 香港人的大食堂:再創嚐樂新世紀 [Đại thực đường Hương Cảng: Tạo thế kỷ vui mới] (bằng tiếng Trung), 香港: 三聯書店(香港)有限公司, ISBN 9789620443947
  • Sinclair, Kevin; Lui Lai-Kuen, Prudence (tháng 2 năm 1999), SOCIETY'S GUARDIANS: A history of correctional services in Hong Kong [Những người bảo vệ xã hội: Lịch sử trừng giáo tại Hồng Kông] (PDF) (bằng tiếng Anh và Trung), Hong Kong: Hong Kong Correctional Services Department, ISBN 9628513044, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2018, truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2022
  • Hoàng Tuấn Tuệ, 黃雋慧 (28 tháng 6 năm 2017). 不漏洞拉 [Không sơ hở] (bằng tiếng Trung). 新北市: 衛城出版. ISBN 9789869480239.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Chúng tôi bán
Bài viết liên quan