Trận đồn Donelson

Trận đồn Donelson
Một phần của Nội chiến Hoa Kỳ

Battle of Fort Donelson, tranh của Kurz và Allison, 1887.
Thời gian1116 tháng 2 năm 1862
Địa điểm
Kết quả Liên bang miền Bắc chiến thắng[1]
Tham chiến
Hoa Kỳ Liên bang miền Bắc Liên minh miền Nam Hoa Kỳ Liên minh miền Nam
Chỉ huy và lãnh đạo
Hoa Kỳ Ulysses S. Grant
Hoa Kỳ Andrew H. Foote
Liên minh miền Nam Hoa Kỳ John B. Floyd
Liên minh miền Nam Hoa Kỳ Gideon J. Pillow
Liên minh miền Nam Hoa Kỳ Simon B. Buckner (POW)
Thành phần tham chiến
Quận Cairo
Đội tàu miền Tây
Quân đồn trú đồn Donelson
Lực lượng
24.531[2] 16.171[2]
Thương vong và tổn thất
2.691
(507 chết,
  1.976 bị thương,
  208 bị bắt/mất tích[3])
13.846
(327 chết,
  1.127 bị thương,
  12.392 bị bắt/mất tích[3])

Trận đồn Donelson là trận đánh diễn ra từ ngày 11 tháng 2 đến 16 tháng 2 năm 1862, thuộc Mặt trận miền Tây trong Nội chiến Hoa Kỳ. Quân đội Liên bang miền Bắc đã đánh chiếm đồn Donelson, mở rộng đường sông Cumberland cho cuộc tấn công xuống miền Nam. Nhờ thắng trận này mà chuẩn tướng Ulysses S. Grant đang là sĩ quan không ai biết đến được thăng chức thiếu tướng và trở nên nổi tiếng với biệt hiệu Grant "đầu hàng vô điều kiện" ("Unconditional Surrender" Grant - viết tắt trùng với hai tên đầu của ông).

Sau khi hạ được đồn Henry ngày 6 tháng 2, Grant kéo quân chạy 12 dặm theo đường bộ tiến đến đồn Donelson từ ngày 12 đến ngày 13 tháng 2 và bắt đầu các cuộc công kích lẻ tẻ để thăm dò.[4] Ngày 14 tháng 2, viên chỉ huy hải quân Andrew H. Foote đã cố hạ đồn bằng cách cho tàu chiến pháo kích nhưng bị quân miền Nam bắn trả dữ dội và buộc phải rút lui với nhiều thiệt hại.

Ngày 15 tháng 2, đồn Donelson bị bao vây, chỉ huy quân miền Nam là chuẩn tướng John B. Floyd liền bất thình lình đem quân kéo ra phá vòng vây mở đường thoát. Tướng Grant lúc đầu không có mặt tại chiến trường nhưng đã tới kịp để củng cố lực lượng và tiến hành phản kích, điều động quân miền Bắc đánh trả mãnh liệt. Mặc dù có giành được thắng lợi cục bộ nhưng Floyd thấy vậy đâm mất tự tin, kéo quân rút về đồn.

Sáng hôm sau, ngày 16 tháng 2, Floyd cùng phó tướng là Gideon J. Pillow đã chuyển giao quyền chỉ huy cho chuẩn tướng Simon Bolivar Buckner (người sau này trở thành thống đốc Kentucky), và Buckner liền chấp nhận ra hàng vô điều kiện tướng Grant.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “NPS”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2003. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2011.
  2. ^ a b Gott, trg 284-88. Lực lượng miền Bắc bao gồm cả hải quân và lục quân.
  3. ^ a b Gott, pp. 284-85, 288.
  4. ^ Mặc dù chưa phải là tên chính thức nhưng đội quân dưới quyền Grant đã trở thành hạt nhân của Binh đoàn sông Tennessee sau này.Woodworth, trg 10.


Thứ mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Catton, Bruce. Grant Moves South. Boston: Little, Brown & Co., 1960. ISBN 0-316-13207-1.
  • Huffstodt, James. Hard Dying Men: The Story of General W. H. L. Wallace, General Thomas E. G. Ransom, and the "Old Eleventh" Illinois Infantry in the American Civil War (1861–1865). Bowie, MD: Heritage Press. ISBN 1-55613-510-6.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Chàng Trai Khắc Kỷ Sẽ Sống Như Thế Nào?
Chàng Trai Khắc Kỷ Sẽ Sống Như Thế Nào?
Trước khi bắt đầu mình muốn bạn đọc nhập tâm là người lắng nghe thằng homie kể về người thứ 3
KLAUS (2019) - Khi phim hoạt hình không chỉ dành cho trẻ em
KLAUS (2019) - Khi phim hoạt hình không chỉ dành cho trẻ em
Ngay từ đầu mục đích của Jesper chỉ là lợi dụng việc những đứa trẻ luôn thích đồ chơi, dụ dỗ chúng viết thư cho ông già Noel còn mình thì nhanh chóng đạt được mục tiêu bố đề ra và trở lại cuộc sống vô lo vô nghĩ ngày nào
Sơ lược về White Room - Classroom of the Elite
Sơ lược về White Room - Classroom of the Elite
White Room (ホワイトルーム, Howaito Rūmu, Việt hoá: "Căn phòng Trắng") là một cơ sở đào tạo và là nơi nuôi nấng Kiyotaka Ayanokōji khi cậu còn nhỏ
Giới thiệu AG Adara - Magenta Meteor Artery Gear: Fusion
Giới thiệu AG Adara - Magenta Meteor Artery Gear: Fusion
Sở hữu năng lực xoá buff diện rộng kèm hiệu ứng Speed Reduction, đặc biệt là rush action cực khủng