![]() | Trang hay phần này đang được viết mới, mở rộng hoặc đại tu. Bạn cũng có thể giúp xây dựng trang này. Nếu trang này không được sửa đổi gì trong vài ngày, bạn có thể gỡ bản mẫu này xuống. Nếu bạn là người đã đặt bản mẫu này, đang viết bài và không muốn bị mâu thuẫn sửa đổi với người khác, hãy treo bản mẫu {{đang sửa đổi}} .Sửa đổi cuối: Leeaan (thảo luận · đóng góp) vào 32 ngày trước. (làm mới) |
Trận phòng thủ Bắc Kinh | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Minh – Ngõa Lạt | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Bắc Nguyên (Ngõa Lạt) | Đại Minh | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
| |||||||
Lực lượng | |||||||
70.000 | 220.000 |
Trận bảo vệ kinh sư, còn gọi là Trận bảo vệ Bắc Kinh, diễn ra vào tháng 10 năm Chính Thống thứ 14 (1449) thời nhà Minh. Đây là cuộc chiến mà triều Minh, dưới sự lãnh đạo của Binh bộ Thượng thư Vu Khiêm, đã chống lại đại quân của thủ lĩnh Ngõa Lạt, Dã Tiên, tấn công kinh thành Bắc Kinh.
Đầu thời Minh, Ngõa Lạt do Mã Hãn Mộc và Thoát Hoan cai quản. Ngõa Lạt là một trong các bộ tộc Mông Cổ tại vùng Tái Bắc Trung Quốc, thường xuyên có xung đột với bộ tộc Thát Đát ở phía Đông. Năm Chính Thống thứ 4 (1439), thủ lĩnh Ngõa Lạt Thoát Hoan qua đời, con trai ông là Dã Tiên kế vị và tự xưng Thái sư Hoài vương. Sau khi lên ngôi, Dã Tiên dùng vũ lực thống nhất các bộ tộc Mông Cổ, chinh phục ba vệ Ngột Lương Cáp thuộc địa phận triều Minh, khiến thế lực Ngõa Lạt ngày càng mạnh và nhiều lần xâm phạm biên giới phía bắc nhà Minh.
Đến năm Chính Thống thứ 14 (1449), đầu năm, Dã Tiên cử 2.000 người mang ngựa sang triều Minh triều cống nhưng khai khống thành 3.000 để nhận nhiều quà cáp từ triều đình hơn. Minh triều phát giác sự việc, chỉ thưởng theo số lượng thực tế và giảm giá ngựa. Khi biết chuyện, Dã Tiên vô cùng phẫn nộ. Đến tháng 7 cùng năm, ông tập hợp toàn bộ lực lượng, phát động cuộc tấn công lớn vào biên giới nhà Minh.
Lúc này, thái giám Vương Chấn đang nắm quyền hành lớn trong triều. Vương Chấn xúi giục Minh Anh Tông dẫn đầu 50 vạn quân ra chiến trường. Tháng 8, đại quân Minh vừa đến Đại Đồng, Sơn Tây thì nhận được tin các cánh quân Minh ở tiền tuyến liên tiếp thất bại. Vương Chấn không dám tiến lên mà ra lệnh rút quân. Khi đến Thổ Mộc bảo, đại quân Minh bị quân Ngõa Lạt bao vây. Sau nhiều ngày bị tấn công, toàn bộ quân Minh bị tiêu diệt, Vương Chấn và nhiều tướng lĩnh thiệt mạng, còn Anh Tông bị bắt. Sự kiện này được gọi là Sự biến Thổ Mộc bảo. Dã Tiên, nhân cơ hội chủ lực triều Minh tan rã, triều đình không người lãnh đạo, kinh sư trống vắng và lòng dân hoang mang, đã dẫn đại quân tiến xuống phía nam, nhằm tấn công kinh thành Thuận Thiên phủ (Bắc Kinh), ép nhà Minh phải đầu hàng.
Vào tháng 8 năm Chính Thống thứ 14 (1449), khi tin tức về thất bại của quân Minh và việc Anh Tông bị bắt đến kinh sư, cả triều đình rúng động, văn võ bá quan không biết phải làm gì, "quần thần tụ tập khóc lóc trong triều." Ngày 18 tháng 8, Thái hậu Tôn thị ra lệnh cho Chu Kỳ Ngọc, em ruột của hoàng đế, tức Thành vương, đảm nhận chức Giám quốc, đồng thời triệu tập triều thần để bàn bạc kế sách đối phó.
Một số đại thần, đứng đầu là Từ Hữu Trinh (lúc này còn gọi là Từ Trừng), đề xuất dời đô về Nam Kinh nhằm tránh mũi nhọn của đại quân Ngõa Lạt. Tuy nhiên, Binh bộ Thị lang Vu Khiêm cương quyết phản đối, cho rằng: "Kinh sư là căn bản của thiên hạ, nếu dời đi thì mọi việc lớn đều tiêu tan." Ông lấy câu chuyện triều Tống dời đô về phía nam làm bài học lịch sử để lập luận phản đối việc dời đô, đồng thời tuyên bố: "Ai dám bàn chuyện dời đô, có thể chém!" Thượng thư Lại bộ Vương Trực và Đại học sĩ Nội các Trần Tuân đều đồng tình với Vu Khiêm. Cuối cùng, triều đình quyết định kiên quyết cố thủ Bắc Kinh.
Để trấn an lòng dân, ngày 23 tháng 8, triều Minh ra lệnh tịch thu tài sản và tru di cửu tộc Vương Chấn, kẻ chủ mưu gây ra Biến cố Thổ Mộc bảo. Đến ngày 29 tháng 8, văn võ bá quan cùng thỉnh cầu Hoàng thái hậu lập Giám quốc Thành vương làm hoàng đế, tức Minh Cảnh Đế, đồng thời truy tôn Chu Kỳ Trấn (Anh Tông bị bắt) làm Thái thượng hoàng, phá tan âm mưu của Ngõa Lạt sử dụng Anh Tông để uy hiếp triều Minh.
Vu Khiêm được thăng chức Binh bộ Thượng thư, tích cực chuẩn bị chiến đấu. Sau đó, các đội quân cứu viện từ Lưỡng Kinh (Nam Kinh và Bắc Kinh), Hà Nam, Sơn Đông lần lượt đến kinh sư. Vu Khiêm chỉnh đốn quân đội, tuyển chọn tướng lĩnh mới và huấn luyện binh sĩ, đồng thời ra lệnh các đội quân phòng thủ biên giới khẩn trương củng cố các cửa ải lớn nhỏ dọc biên thùy.
Vào ngày mùng 1 tháng 10 năm Chính Thống thứ 14 (1449), quân Ngõa Lạt chia làm ba cánh lớn tiến đánh kinh sư. Đạo quân phía đông từ Cổ Bắc Khẩu tiến về Mật Vân; đạo trung quân từ Tuyên Phủ tấn công Cư Dung Quan; cánh quân phía tây do Dã Tiên đích thân chỉ huy, áp giải Thái thượng hoàng Chu Kỳ Trấn từ Tập Ninh qua Đại Đồng, Dương Hòa, sau khi chiếm được Bạch Dương Khẩu thì tiến về phía nam, tấn công Tử Kinh Quan.
Triều Minh nhận được tin quân Ngõa Lạt đang áp sát kinh thành liền ban lệnh giới nghiêm, truyền lệnh các phiên vương đưa binh vào hộ vệ kinh sư. Ngày mùng 8 tháng 10, Minh Đại Tông bổ nhiệm Vu Khiêm làm đề đốc quân mã các doanh trại, trao toàn quyền chỉ huy cho ông. Cùng ngày, Lưu An và Vương Thông được ân xá, ra khỏi ngục để tham gia phòng thủ kinh thành.
Ngày mùng 9 tháng 10, dưới sự dẫn đường của thái giám phản bội Hỷ Ninh, quân Ngõa Lạt vượt núi qua con đường nhỏ, chiếm Tử Kinh Quan. Phó đô ngự sử Tôn Tường tử trận, quân Ngõa Lạt từ hai hướng Tử Kinh Quan và Bạch Dương Khẩu tiến sát kinh thành. Triều đình triệu tập văn võ bá quan để bàn kế sách phòng thủ. Tổng binh kinh sư Thạch Hanh đề nghị: “Không nên xuất quân, hãy đóng chặt cửu môn để chờ địch tự suy yếu.” Vu Khiêm phản đối, cho rằng: “Làm vậy sẽ tỏ ra yếu thế, khiến địch khinh nhờn chúng ta,” và chủ trương dựng trại nghênh chiến ngay trước kinh thành. Ông đề xuất điều động 22 vạn binh bố trí ở cửu môn Bắc Kinh.
Vu Khiêm, Thạch Hanh, và Phạm Quảng giữ Đức Thắng Môn; Đô đốc Đào Cẩn giữ An Định Môn; Quảng Ninh bá Lưu An giữ Đông Trực Môn; Vũ Tiến bá Chu Anh giữ Triều Dương Môn; Đô đốc Lưu Tụ giữ Tây Trực Môn; Phó tổng binh Cố Hưng Tổ giữ Phụ Thành Môn; Đô chỉ huy Lý Thụy giữ Chính Dương Môn; Đô đốc Lưu Đức Tân giữ Sùng Văn Môn; Đô chỉ huy Thang Tiết giữ Tuyên Vũ Môn. Sau khi hoàn thành việc bố trí quân đội, Vu Khiêm ra lệnh đóng chặt tất cả các cổng thành.