Vụ va chạm trên không Brocklesby năm 1940

Vụ va chạm trên không Brocklesby năm 1940
Hai chiếc Avro Anson đã hạ cánh an toàn, sau khi va chạm trên không rồi mắc kẹt với nhau vào ngày 29 tháng 9 năm 1940
Tai nạn
Ngày29 tháng 9 năm 1940
Mô tả tai nạnVa chạm trên không
Địa điểmBrocklesby, bang New South Wales, Úc
36°48′N 146°41′Đ / 36,8°N 146,683°Đ / -36.800; 146.683
Số người chết0
Số người bị thương1
Số người sống sót4 (toàn bộ)
Máy bay thứ nhất
DạngAvro Anson
Hãng hàng khôngTrường đào tạo bay số 2 của Không quân Hoàng gia Úc
Số đăng kýN4876
Xuất phátCăn cứ không quân Forest Hill, bang New South Wales
Điểm đếnCorowa, bang New South Wales
Phi hành đoàn2
Bị thương0
Sống sót2 (toàn bộ)
Máy bay thứ hai
DạngAvro Anson
Hãng hàng khôngTrường đào tạo bay số 2 của Không quân Hoàng gia Úc
Số đăng kýL9162
Xuất phátCăn cứ không quân Forest Hill, bang New South Wales
Điểm đếnCorowa, bang New South Wales
Phi hành đoàn2
Bị thương1
Sống sót2 (toàn bộ)

Vào ngày 29 tháng 9 năm 1940, một vụ va chạm trên không xảy ra trên bầu trời Brocklesby, bang New South Wales, Úc. Đây là một tai nạn hy hữu bởi vì các máy bay liên quan tới tai nạn, hai chiếc Avro Anson của Trường đào tạo bay số 2 của Không quân Hoàng gia Úc, bị mắc kẹt với nhau sau khi va chạm xảy ra, rồi cùng nhau hạ cánh an toàn. Vụ va chạm làm cho chiếc Anson phía trên bị hỏng động cơ, nhưng động cơ của chiếc Anson phía dưới vẫn tiếp tục hoạt động, cho phép cặp máy bay này tiếp tục bay. Cả hai người dẫn đường và phi công của chiếc Anson phía dưới ngất xỉu. Phi công của chiếc Anson phía trên nhận ra rằng anh ấy có thể điều khiển cả hai chiếc máy bay đang mắc kẹt với nhau bằng các cánh lái độ caocánh tà, rồi sau đó hạ cánh xuống một cánh đồng gần đó. Cả bốn người thuộc tổ lái ở cả hai máy bay đều sống sót, sau đó thì chiếc Anson phía trên được sửa chữa lại và tiếp tục phục vụ cho không quân Hoàng gia Úc.

Trường đào tạo và chi tiết chuyến bay

[sửa | sửa mã nguồn]
Five twin-engined military monoplanes in flight, line abreast
Những chiếc Anson thuộc Trường đào tạo bay số 2 của Không quân Hoàng gia Úc đang bay theo đội hình

Trường đào tạo bay số 2 của Không quân Hoàng gia Úc (SFTS), có đặt căn cứ tại Căn cứ không quân Forest Hill gần Wagga Wagga, bang New South Wales, là một trong những trường đào tạo phi công được thành lập trong những năm đầu Chiến tranh thế giới lần thứ II là một phần cống hiến của Úc vào kế hoạch đào tạo bay khối Thịnh vượng chung của Anh.[1][2] Sau việc huấn luyện bay đơn giản tại trường đào tạo bay trung cấp, học sinh sẽ đến một trường đào tạo bay không quân Hoàng gia để học kỹ thuật họ sẽ phải làm nhiệm vụ (hay "phục vụ"), trong đó có bay siêu nhanh, bay đêm, tuần tra liên quốc gia, nhào lộn nâng cao, bay theo đội hình, đánh bom bổ nhào, và pháo binh trên không.[3][4] Cơ sở vật chất của trường đào tạo bay số 2 của Không quân Hoàng gia Úc vẫn đang được xây dựng khi khóa huấn luyện bay đầu tiên với những chiếc Avro Anson bắt đầu ngày 29 tháng 7 năm 1940.[1][5]

Vào ngày 29 tháng 9 năm 1940, hai chiếc Anson cất cánh từ căn cứ không quân Forest Hill để bay huấn luyện dọc vùng nông thôn ở phía nam bang New South Wales.[6] Máy bay có số đăng ký N4876 được điều khiển bởi phi công Leonard Graham Fuller, 22 tuổi, đến từ Cootamundra, cùng phi công Ian Menzies Sinclair, 27 tuổi, đến từ Glen Innes, trong vai trò là người dẫn đường.[6][7][8][9] Chiếc máy bay có số đăng ký L9162 được điều khiển bởi phi công Jack Inglis Hewson, 19 tuổi, đến từ Newcastle, và phi công Hugh Gavin Fraser, 27 tuổi, đến từ Melbourne, trong vai trò là người dẫn đường.[6][7][10][11] Kế hoạch lộ trình của họ đầu tiên là bay tới Corowa, rồi đi Narrandera, và cuối cùng quay trở lại Forest Hill.[12]

Va chạm và hạ cánh khẩn cấp

[sửa | sửa mã nguồn]
Rear three-quarter view of two military monoplanes lying wheels down on a field, one atop the other
Hai chiếc Anson mắc kẹt với nhau đang nằm trên cánh đồng
Two military monoplanes lying wheels down on a field, one atop the other
Động cơ và phần trước của hai chiếc máy bay

Hai chiếc Anson đang bay ở độ cao 1.000 foot (300 mét) ở thị trấn Brocklesby, gần Albury, thì thực hiện cú liệng vòng.[6][12] Fuller không thể nhìn thấy chiếc máy bay của Hewson đang ở phía dưới và hai chiếc Anson va chạm trong bối cảnh mà Fuller miêu tả sau đó là "hai chiếc máy bay mài vào nhau và một tiếng nổ khi hai cánh quạt đang gầm rú mắc kẹt với nhau mỗi cái suýt chém vào nắp động cơ của chiếc kia".[12][13] Hai chiếc máy bay vẫn bị mắc kẹt với nhau, đuôi nhỏ của chiếc Anson phía dưới găm vào cánh trái của chiếc còn lại, vây và bánh lái của nó giúp cho đuôi cánh trái của chiếc máy bay phía trên cân bằng.[14]

Cả hai động cơ của chiếc máy bay trên đều bị hỏng do vụ va chạm nhưng những động cơ của chiếc phía dưới tiếp tục chạy ở mức tối đa khi hai chiếc Anson mắc kẹt với nhau bắt đầu bay vòng tròn một cách chậm chạp.[7][12] Fuller mô tả "sự kết hợp kỳ dị" này là "dính vào nhau như cục gạch".[15] Trong hoàn cảnh như vậy, anh ấy nhận ra rằng mình có thể điều khiển hai chiếc máy bay đang cõng nhau với cánh lái độ cao và cánh tà bằng chiếc máy bay của anh ấy, và bắt đầu tìm kiếm vị trí để hạ cánh.[12][16] Hai người dẫn đường là Sinclair và Fraser, ngất xỉu, không lâu trước khi phi công của chiếc Anson phía dưới cũng bị ngất xỉu. Hewson, phi công chiếc máy bay ở dưới, bị thương ở lưng khi cánh quạt của chiếc máy bay bên trên cắt qua thân máy bay của anh ấy.[1][12]

Fuller đi thêm 8 kilômét (khoảng 5 dặm) sau vụ va chạm, rồi thực hiện thành công pha hạ cánh khẩn cấp bằng bụng tại một cánh đồng lớn, 6 kilômét (4 mi) phía tây nam Brocklesby. Hai chiếc máy bay mắc kẹt đã trượt 180 mét (200 thước Anh) trên cỏ rồi dừng lại.[6][12] Theo như Fuller biết, đó là cú hạ cánh tốt nhất trong thời gian luyện tập xử lý các tình huống bay vòng và va chạm tại căn cứ không quân Forest Hill trong những ngày trước đó. Sĩ quan chỉ huy trưởng của anh ấy, Squadron Leader Cooper, tuyên bố rằng anh ấy đã có sự lựa chọn nơi hạ cánh "hoàn hảo", và chỉ riêng pha hạ cánh cũng là một "nỗ lực tuyệt vời".[7] Trưởng nhóm phụ trách giải quyết tai nạn của không quân Hoàng gia Úc là Arthur "Spud" Murphy, đã bay thẳng tới hiện trường vụ tai nạn từ căn cứ không quân chính tại Melbourne, cùng với phó nhóm là Henry Winneke.[17] Fuller nói với Murphy rằng:[12]

Sau vụ tai nạn

[sửa | sửa mã nguồn]
Two men talking, one in dark overcoat with broad-brimmed hat, the other in dark military uniform with forage cap
Trung sĩ Fuller (bên phải) chụp cùng Uỷ viên nghị viện Úc cấp cao Stanley Bruce tại London năm 1941
An aircraft engine and propeller sits under fenced, roofed shelter in a park
Đài tưởng niệm nhỏ tưởng nhớ sự kiện ở Brocklesby, ảnh chụp năm 2009

Tại nạn kỳ lạ này đã được đưa tin khắp thế giới, và làm cho thị trấn nhỏ Brocklesby trở nên nổi tiếng.[7][12] Để ngăn chặn việc phá hủy hai chiếc Anson, Fuller không chỉ nhận được công trạng vì đã tránh gây tổn thất cho Brocklesby, mà còn tiết kiệm cho quân đội khoản tiền khoảng 40.000 £. Cả hai chiếc Anson đều được sửa chữa lại; chiếc máy bay ở phía trên (N4876) sau đó trở lại phục vụ, và chiếc máy bay phía dưới (L9162) được dùng để giảng dạy.[6][12] Hewson được chữa trị cho chấn thương lưng của anh ta tại bệnh viện quận Albury và trở lại tiếp tục hoàn thành nghĩa vụ quân sự; anh ấy tốt nghiệp Trường đào tạo bay số 2 của Không quân Hoàng gia Úc vào tháng 10 năm 1940.[7][12] Anh ấy giải ngũ trong vai trò phi công trưởng vào năm 1946.[10] Sinclair giải ngũ năm 1945, cũng là một phi công trưởng vào thời điểm đó.[9] Fraser đã được cho sang Anh với vai trò là phi công cho Phi đội số 206 của Không lực Hoàng gia Anh, đóng quân tại căn cứ Aldergrove, Bắc Ireland. Anh cùng ba đồng đội hi sinh vào ngày 1 tháng 1 năm 1942 khi chiếc Lockheed Hudson của họ đâm vào một ngọn cây trong một chuyến bay huấn luyện thường lệ.[18]

Fuller được thăng chức lên trung sĩ sau khi hạ cánh thành công, nhưng cũng bị quản thúc giới hạn trong doanh trại trong vòng 14 ngày và trừ lương 7 ngày do tiết lộ thông tin với báo chí mà không được cho phép.[12][19] Ông đã tốt nghiệp Trường đào tạo bay số 2 của Không quân Hoàng gia Úc vào tháng 10 năm 1940, và đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ Ban hàng không quốc gia Australia cho "sự hiện diện của cái tâm, lòng can đảm và quyết tâm của mình trong hạ cánh hai chiếc Anson bị mắc kẹt với nhau mà không gây thiệt hại nghiêm trọng cho máy bay trong điều kiện khó khăn".[7][20] Fuller được đưa sang phục vụ tại Trung Đông, và sau đó là châu Âu cho Phi đội số 37 cua Không lực Hoàng gia Anh. Ông nhận được Huy chương bay Vang danh cho hành động của mình tại Palermo vào tháng 3 năm 1942. Được phong sĩ quan vài tháng sau, Fuller trở về Australia trong vai trò sĩ quan chỉ huy bay, và sĩ quan huấn luyện bay cho Đơn vị huấn luyện bay số 1 của Không quân Hoàng gia ÚcSale, bang Victoria.[7][16] Fuller tử nạn ở gần Sale vào ngày 18 tháng 3 năm 1944, khi xe đạp của ông ấy bị một chiếc xe buýt đâm phải.[12][16]

Theo Hội đồng Greater Hume Shire, vụ va chạm trên không năm 1940 là "nguyên nhân chính của sự nổi tiếng" của Brocklesby.[21][22] Cư dân địa phương kỷ niệm 50 năm sự kiện này bằng cách dựng một vật đánh dấu gần nơi hạ cánh trong tai nạn; nó đã được công bố bởi Tim Fischer, các Thành viên liên bang của FarrerLãnh đạo Đảng Quốc Úc, vào ngày 29 tháng 9 năm 1990.[23][24] Vào ngày 26 tháng 1 năm 2007, một đài tưởng niệm có hình động cơ của chiếc Avro Anson được khai trương nhân lễ hội ngày Úc ở Brocklesby.[25]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c RAAF Historical Section, Units of the Royal Australian Air Force, trang 102 và trang 103
  2. ^ Gillison, Royal Australian Air Force 1939–1942, trang 111
  3. ^ Stephens, The Royal Australian Air Force, từ trang 67 đến trang 70
  4. ^ Gillison, Royal Australian Air Force 1939–1942, trang 97 và trang 109
  5. ^ Gillison, Royal Australian Air Force 1939–1942, trang 56
  6. ^ a b c d e f Parnell; Boughton, Flypast, trang 186
  7. ^ a b c d e f g h Ilbery, Hatching an Air Force, trang 16
  8. ^ “Fuller, Leonard Graham”. World War 2 Nominal Roll. Department of Veterans' Affairs. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.
  9. ^ a b “Sinclair, Ian Menzies”. World War 2 Nominal Roll. Department of Veterans' Affairs. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.
  10. ^ a b “Hewson, Jack Inglis”. World War 2 Nominal Roll. Department of Veterans' Affairs. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.
  11. ^ “Fraser, Hugh Gavin”. World War 2 Nominal Roll. Department of Veterans' Affairs. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.
  12. ^ a b c d e f g h i j k l m Coleman, Above Renown, trang 103 và trang 104
  13. ^ “Risks Life To Save Villagers”. The Daily News. Perth: National Library of Australia. ngày 2 tháng 10 năm 1940. tr. 2. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.
  14. ^ Wilson, Anson, Hudson & Sunderland in Australian Service, trang 52 và trang 53
  15. ^ “Pick-a-back planes”. The Canberra Times. Canberra: National Library of Australia. ngày 2 tháng 10 năm 1940. tr. 3. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.
  16. ^ a b c Gillison, Royal Australian Air Force 1939–1942, trang 82 và trang 83 Chapter 4 – The Empire Plan: Doctrines and Decisions
  17. ^ Coleman, Above Renown, trang 99 và trang 103
  18. ^ “RAAF Personnel Serving on Attachment in Royal Air Force Squadrons” (PDF). Hội cựu chiến binh Úc. tr. 14. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  19. ^ Royal Australian Air Force, RAAF Officers Personnel Files, trang 42
  20. ^ Royal Australian Air Force, RAAF Officers Personnel Files, trang 32
  21. ^ “What's on in May”. Greater Hume Shire. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  22. ^ “Shire Villages”. Greater Hume Shire. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  23. ^ Jones, Howard (ngày 3 tháng 1 năm 2007). “Town remembers piggyback planes”. The Border Mail. Fairfax Media. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.
  24. ^ Royal Australian Air Force, RAAF Officers Personnel Files, trang 4–5
  25. ^ Mulcahy, Mark (ngày 27 tháng 1 năm 2007). “Gala double for couple”. The Border Mail. Fairfax Media. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Tản mạn - Hành trình trở lại Long Tích Tuyết Sơn - Phần 1
Tản mạn - Hành trình trở lại Long Tích Tuyết Sơn - Phần 1
tựa như hồn, tinh ngân tựa như cốt. Nhưng người ngoại bang có thể lay chuyển nó, Imunlau...
Một số Extensions dành cho các dân chơi Visual Code
Một số Extensions dành cho các dân chơi Visual Code
Trước khi bắt tay vào cốt thì bạn cũng nên tự trang trí vì dù sao bạn cũng sẽ cần dùng lâu dài hoặc đơn giản muốn thử cảm giác mới lạ
Hướng dẫn Relationships trong Postknight
Hướng dẫn Relationships trong Postknight
Relationships hay cách gọi khác là tình yêu trong postknight
Tuổi trẻ và những chiếc rìu
Tuổi trẻ và những chiếc rìu
Tuổi trẻ chúng ta thường hay mắc phải một sai lầm, đó là dành toàn bộ Thời Gian và Sức Khoẻ của mình để xông pha, tìm mọi cách, mọi cơ hội chỉ để kiếm thật nhiều tiền