Władysław Broniewski

Władysław Broniewski
Broniewski là người lính của quân đoàn Ba Lan trong Thế chiến thứ nhất
Broniewski sau khi bị Bộ Dân Ủy Nội vụ bắt giữ năm 1940

Władysław Broniewski (17 tháng 12 năm 1897, tại Płock - 10 tháng 2 năm 1962, tại Warszawa) là nhà thơ và người lính người Ba Lan.

Cuộc đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1915, Broniewski gia nhập quân đoàn Ba Lan do Józef Piłsudski đứng đầu.[1] Sau đó ông nhập ngũ tham gia vào cuộc chiến tranh Nga-Ba Lan (1919-1921), chiến đấu trong Trận Białystok.[2] Ông được tao tặng huân chương Virtuti Militari.

Broniewski có cảm tình với chính trị cánh tả. Cuối những năm 20 của thế kỉ IXI, ông là nhà thơ cách mạng. Mùa hè năm 1931, ông bị bắt trong cuộc họp các nhà văn có liên quan đến Đảng Cộng sản Ba Lan (KPP) cùng với Jan Hempel và Aleksander Wat. Ông được Bolesław Wieniawa-Długoszowski giúp đỡ.[3]

Khi Đức tấn công Ba Lan (1939), ông sáng tác bài thơ quan trọng nhằm phủ dụ, động viên tinh thần người dân Ba Lan đứng lên đấu tranh xóa bỏ nền chính trị đương thời và đánh giặc ngoại xâm. Khi Liên Xô xâm chiếm Ba Lan, Broniewski đang hoạt động ở Lwów. Những bài thơ do ông sáng tác đã được in trên một tờ báo của Liên Xô. Tuy nhiên, Bộ Dân ủy Nội vụ (NKVD) đã bắt giữ ông với tội danh "chủ nghĩa côn đồ". Ông không chịu hợp tác với NKVD, do vậy bốn tháng sau ông bị chuyển đến nhà tù LubiankaMoskva, bị giam 13 tháng.[1][3] Ra tù, ông làm việc tại đại sứ quán Ba LanKuybyshev (nay là thành phố Samara).[4]

Sau Thế chiến II, nhà nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan được thành lập, ông đã thỏa hiệp với Liên Xô bằng cách sáng tác bài thơ Słowo o Stalinie năm 1951. Các bài thơ mà ông sáng tác trong thời kỳ này là minh chứng sống động cho tài năng của ông. Ông cũng là nhà dịch giả thơ và văn xuôi cùng với các nhà văn, nhà thơ đương thời như Fyodor Dostoevsky, Sergei Yesenin, Vladimir Mayakovsky, và Bertolt Brecht.

Trong những năm cuối đời, do lạm dụng rượu nên sức khỏe của ông kiệt quệ dần. Ông qua đời tại Warszawa, hưởng thọ 66 tuổi.

Tuyển tập thơ

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Wiatraki (1925)
  • Dymy nad miastem (1927)
  • Troska i pieśń (1932)
  • Krzyk ostateczny (1938)
  • Bagnet na broń (1943)
  • Drzewo rozpaczające (1945)
  • Nadzieja (1951)
  • Anka (1956)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Miłość, wódka, polityka, czyli biografia Broniewskiego at PolskieRadio.pl
  2. ^ Spis oficerów służących czynnie w dniu 1.6.1921 r. Dodatek do Dziennika Personalnego M.S.Wojsk. Nr 37 z 24 września 1921 r. tr. 21, 568.
  3. ^ a b Wat, Aleksander (1990). Mój wiek. Warsaw.
  4. ^ Czapski, Józef. Na nieludzkiej ziemi.

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Broniewski, Władysław. Pamiętnik 1918 Từ1922. Warszawa: Państwowy Instytut Wydawniczy, 1987.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Hợp chúng quốc Teyvat, sự hận thù của người Khaehri’ah, Tam giới và sai lầm
Hợp chúng quốc Teyvat, sự hận thù của người Khaehri’ah, Tam giới và sai lầm
Các xác rỗng, sứ đồ, pháp sư thành thạo sử dụng 7 nguyên tố - thành quả của Vị thứ nhất khi đánh bại 7 vị Long vương cổ xưa và chế tạo 7 Gnosis nguyên thủy
Xếp hạng trang bị trong Tensura
Xếp hạng trang bị trong Tensura
Cùng tìm hiểu về bảng xếp hạng trang bị trong thế giới slime
Bộ kỹ năng của Chevreuse - Đội trưởng đội tuần tra đặc biệt của Fontaine
Bộ kỹ năng của Chevreuse - Đội trưởng đội tuần tra đặc biệt của Fontaine
Các thành viên trong đội hình, trừ Chevreuse, khi chịu ảnh hưởng từ thiên phú 1 của cô bé sẽ +6 năng lượng khi kích hoạt phản ứng Quá Tải.
Profile và tội của mấy thầy trò Đường Tăng trong Black Myth: Wukong
Profile và tội của mấy thầy trò Đường Tăng trong Black Myth: Wukong
Trong Black Myth: Wukong thì Sa Tăng và Tam Tạng không xuất hiện trong game nhưng cũng hiện diện ở những đoạn animation