Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Chiến tranh Nga –Ba Lan 1919—1921 | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất | |||||||
Từ trái sang phải: Xe tăng Renault F1 của quân đội Ba Lan; Ụ súng máy của quân Ba Lan trong trận vòng cung Ossow-Radzymin-tháng 8 1920; liên quân Ba Lan-Ukraina tại mặt trận Kiev mùa xuân năm 1920; binh lính Ba Lan phòng thủ trong trận Warsaw; tù binh Nga sau trận Ossow-Radmyzin, chiến hào phòng thủ của Ba Lan ở Belarus, tháng 9 năm 1920. | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Nga Xô viết CHXHCNXV Ukraina CHXHCNXV Byelorussia PolrewkomHỗ trợ: Litva |
Ba Lan Ukraina (Sau 1920) Latvia (Trận Daugavpils) Belarus CHXHCNXV Ukraina (Biệt đội được chọn) Hỗ trợ: Pháp Anh Quốc (Quân Ba Lan tự do) Hoa Kỳ (Quân Mỹ gốc Ba Lan) Hungary România Bạch Vệ | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Vladimir Lenin Leon Trotsky Sergey Kamenev Joseph Stalin Mikhail Tukhachevsky Semyon Budyonny August Kork Hayk Bzhishkyan Nikolai Sollogub Alexander Yegorov Aleksandr Vasilevsky Felix Dzerzhinsky |
Józef Piłsudski (Tổng tư lệnh) Józef Haller Franciszek Latinik T. Jordan-Rozwadowski Władysław Sikorski Kazimierz Sosnkowski Leonard Skierski Edward Rydz-Śmigły Stanisław Szeptycki Symon Petliura Jānis Puriņš | ||||||
Lực lượng | |||||||
800.000—950.000 binh lính (mùa hè 1920) | 738.000 binh lính (mùa hè 1920) | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
67,000 chết[1] 80,000—157,000[2][3] hoặc 200,000+ bị bắt |
khoảng 47,000—72,000 chết 113,518 bị thương 51,351 bị bắt[4][5][6] |
Chiến tranh Nga–Ba Lan diễn ra giữa nước Nga Xô viết và Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan do xung đột sắc tộc cũng như thái độ chống cộng của Ba Lan từ 1919 đến 1921 trên vùng lãnh thổ mà ngày nay là Ba Lan, Belarus, Latvia, Litva và Ukraina. Chiến tranh bùng nổ sau khi quân Ba Lan vượt biên giới, tấn công quân Nga tại Trận Bereza Kartuska để đánh chiếm các lãnh thổ phía Tây nước Nga (nay là Belarus, Ukraina), khi đó đang rối loạn vì nội chiến.
Khi Thế chiến thứ nhất kết thúc (1918), Đế quốc Đức sụp đổ và Ba Lan được công nhận là nước độc lập. Trong khi Hội nghị Hòa bình Paris năm 1919, quốc tế đã ban hành một đường biên giới tạm thời giữa Ba Lan và Nga vào tháng 12 năm 1919 (đường Curzon) như một nỗ lực nhằm xác định các vùng lãnh thổ có "đa số dân tộc Ba Lan không thể chối cãi". Theo đường Curzon, các vùng từ Brest trở về phía Đông là của Nga, trở sang phía Tây là của Ba Lan.
Với sự sụp đổ của Đế chế Nga và Đức trong Thế chiến thứ nhất, hầu như tất cả các nước nhỏ ở Đông Âu đã phát động chiến tranh để tranh giành nhau lãnh thổ: Romania đánh nhau với Hungary để giành Transylvania, Nam Tư đánh nhau với Ý để giành Rijeka, Ba Lan đánh nhau với Tiệp Khắc để giành Cieszyn Silesia, đánh với Đức để chiếm Poznań và Đông Galicia.
Không chỉ đánh nhau với Tiệp Khắc và Đức để bành trướng lãnh thổ, Ba Lan còn muốn đánh nhau với nước Nga. Chính phủ Ba Lan không thỏa mãn với đường biên giới Curzon mà muốn muốn tái lập lãnh thổ mà Đế chế Ba Lan thời cực thịnh từng có năm 1772, khi đó Ba Lan có lãnh thổ rộng lớn nhất nhờ việc đánh chiếm và đô hộ các vùng đất của người Belarus và Ukraina trong suốt thế kỷ 16. Được sự hậu thuẫn của Anh, Pháp, Hoa Kỳ (về sau có cả Đức) trong mục đích tiêu diệt nước Nga Xô viết, chính quyền Ba Lan сho rằng thời gian lộn xộn do cách mạng ở Nga là cơ hội lý tưởng để đánh chiếm Belarus và Ukraina, từ đó tạo điều kiện để Ba Lan vươn lên thành cường quốc ở châu Âu.
Mặt khác, chính quyền Xô Viết nỗ lực khôi phục lãnh thổ thuộc Đế quốc Nga trước Thế chiến thứ nhất, vốn đã có nhiều phần đất tách ra ly khai do sự hỗn loạn của nội chiến Nga và cuộc tấn công của các nước phương Tây (bao gồm cả quân Ba Lan). Ngoài ra, họ cũng ủng hộ việc thiết lập các nhà nước xã hội chủ nghĩa ở các nước châu Âu. Sau cách mạng tháng 11 ở Đức (1918), Thỏa thuận hòa bình Brest giữa nước Nga Xô Viết với Đế quốc Đức trở nên vô hiệu. Với sự rút lui của quân Đức, Hồng Quân bắt đầu tiến mạnh về phía Tây nhằm thu hồi các lãnh thổ vùng Belarus và Ucraina (bị Đế quốc Đức chiếm trong Thế chiến thứ nhất).
Ngày 17 tháng 12 năm 1918, Hồng quân chiếm Dаugаvpils (Dvinsk) và tiếp tục tiến sâu vào các vùng mà nay là Litva và Belarus. Ngày 1 tháng 1 năm 1919, sau khi quân Đức rút khỏi Vilnius, các tổ chức quân sự Ba Lan địa phương đã chiếm thành phố, nhưng ngày 5 tháng 1, Hồng Quân giành lại Vilnius. Vùng Memel tách ra khỏi Đức và bị Pháp chiếm. Người Litva gởi 1.500 binh lính để chiếm Klаipeda. Quân Litva đánh 200 người Pháp, trận đánh giành thành phố diễn ra trong 5 ngày, kết quả có 12 người Litva, 2 người Pháp và 1 cảnh sát Đức chết, Nga lập tức đưa quân đến biên giới.
Việc Ba Lan muốn chiếm vùng Belarus và Ucraina để bành trướng lãnh thổ khiến đụng độ giữa quân đội Nga và Ba Lan là điều tất yếu phải xảy ra.
Tháng 3 năm 1919, quân Ba Lan tấn công Nga tại Trận Bereza Kartuska và vượt sông Neman, chiến tranh nổ ra.
Kết quả chính của cuộc chiến là khu vực Tây Ukraina và Tây Belarus của nước Nga Xô viết bị Ba Lan chiếm. Tại Hiệp ước Riga tháng 3 năm 1921, nước Nga Xô viết đã phải chấp nhận mất một vùng đất khá lớn ở phía đông của Đường Curzon (biên giới giữa hai nước trước chiến tranh). Ba Lan đã chiếm được một phần lớn, bao gồm thành phố Vilnius, Đông Galicia (1919) bao gồm thành phố Lwów, cũng như hầu hết khu vực Volhynia (1921) và lập thành các tỉnh (voivodeship) Wilno, Nowogródek, Polesie, Lwów, Wołyń, Stanisławów, Tarnopol của Ba Lan. Tổng cộng, Ba Lan đã chiếm được gần 135.000 km2 (52.000 dặm vuông) đất, lấn sâu khoảng 250 km về phía đông của dòng Curzon.
Đây trở thành nguyên nhân cho sự thù địch giữa hai nước trong suốt 20 năm. Đến năm 1939, lãnh thổ này được Liên Xô thu hồi trong cuộc tấn công Ba Lan, và được tái sáp nhập vào lãnh thổ Ukraina và Belarus. Biên giới hiện đại được quốc tế công nhận giữa Liên Xô (nay là Belarus, Ucraina) với Ba Lan trở về cơ bản giống như Đường Curzon, tức là biên giới giữa 2 nước vào đầu năm 1919.
Tiếng Nga:
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Rummel1990
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Karpus_zwyciezcy