Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Ylvis | |
---|---|
Loại hình nghệ thuật | Variety show, Late-night talk show, Sketch comedy, Comedy music |
Quốc tịch | Bergen, Na Uy |
Thể loại | nhạc kịch, Nhạc dance điện tử, Pop, Comedy hip hop, Contemporary R&B, PBR&B, Hip hop |
Thành viên | Vegard Ylvisåker Bård Ylvisåker |
Trang web | Ylvis |
Ylvis là cặp đôi nghệ sĩ hài người Na Uy gồm hai anh em Vegard Ylvisåker và Bård Ylvisåker. Họ ra mắt vào năm 2000 và từ đó đã có một chuỗi các chương trình tạp kĩ, buổi diễn hài, chương trình truyền hình, chương trình phát thanh và video âm nhạc. Hiện tại họ đàn làm người dẫn chương trình cho một chương trình đàm thoại nổi tiếng của Na Uy tên I kveld med Ylvis (Chuyện tối cùng Ylvis). Bài hát cũng như video âm nhạc The fox (What does the fox say) mà họ sáng tác và quay phim cho talk show này đã trở nên rất phổ biến trên YouTube từ khoảng tháng 09 năm 2013, hướng sự chú ý của toàn thế giới tới anh em họ. Video này đã đạt được cột mốc hơn 1 tỷ lượt xem trên Youtube vào tháng 11 năm 2021[1].
Vegard Urheim Ylvisåker (sinh ngày 19 tháng 5 năm 1979 tại Trondheim) và Bård Urheim Ylvisåker (sinh ngày 21 tháng 3 năm 1982 tại Bergen) là hai anh lớn trong ba anh em; cha mẹ họ đến từ quận Sogn (miền tây Na Uy). Khi còn nhỏ họ từng sống ở Angola và Mozambique do cha làm kĩ sư trong cuộc nội chiến ở đó. Sau vài năm sống tại châu Phi, gia đình họ chuyển về lại Bergen, nơi hai anh em được học và luyện tập âm nhạc. Vegard chơi đề cầm còn Bård chơi vĩ cầm[2]. Tuy nhiên, cả hai đều bỏ ngang nhạc cụ cũ, thay vào đó Vegard tập trung vào guitar, ca hát, dương cầm, đại hồ cầm và hài kịch còn Bård tập trung vào guitar, ca hát, hài kịch và các bộ môn nhào lộn như múa lụa trên không.
Khi theo học trung học tại Fana Gymnas, họ đã tham gia nhiều hoạt động của trường và các chương trình truyền hình cũng như tham gia vào dàn đồng ca đoàn trường. Trong một buổi biểu diễn, họ đã được phát hiện bởi ông bầu Peter Brandt, người đã bố trí buổi diễn đầu tay của họ với tư cách là những nghệ sĩ chuyên nghiệp đa thể loại tại nhà hát Ole Bull ở Bergen vào ngày 19 tháng 10 năm 2000. Show đó mang tên Ylvis en kabaret (Ylvis: A Cabaret) và được tiếp nối vào năm 2003 bởi show diễn Ylvis en konsert (Ylvis: A Concert)[3].
Năm 2001, Ylvis biểu diễn Ylvis Goes Philharmonic (Ylvis yêu âm nhạc) trên sân khấu ở Grieghallen với sự hậu thuẫn của Bergen Philharmonic Orchestra. Sự hợp tác này được lặp lại vào năm sau tại concert Ylvis Goes Philharmonic - Phần 2.
Họ đột phá và thành công với vai trò người dẫn chương trình truyền hình quốc gia.
Năm 2006, hai anh em ký một hợp đồng quản lý với công ty Stageway. Họ cũng đã ra mắt với tư cách là host trên đài phát thanh truyền hình quốc gia với chương trình phát thanh O-fag (Orienteringsfag, một chủ đề lý thuyết, được đặt tên theo một chủ đề trước đây được giảng dạy trong các trường tiểu học Na Uy, một sự kết hợp của khoa học và xã hội học) trên NRK Radio.
Ngày 25 tháng 1 năm 2007, họ xuất hiện trên sân khấu tại Nhà hát Ole Bull với một show diễn mới mang tên Ylvis III. Họ đi lưu diễn trong gần ba năm, buổi diễn cuối cùng được diễn ở Odda ở miền tây Na Uy vào tháng 12 năm 2009. Show diễn đã được ghi hình và xuất bản thành DVD. Cũng trong năm 2007, họ ra mắt trong vai trò là host trên truyền hình quốc gia với chương trình Norges herligste (Những điều tuyệt vời nhất của Na Uy), một phiên bản của show truyền hình Thụy Điển 100 höjdare (100 điều hay nhất), đã được phát hành DVD cũng như phát sóng trên truyền hình Thụy Điển.
Năm 2008 họ phát hành mùa thứ hai của chương trình radio O-fag và một chương trình truyền hình mới Ylvis møter veggen (Ylvis đối mặt bức tường) trên TVNorge, được lấy cảm hứng từ Brain Wall, phần đặc biệt của một trò chơi truyền hình Nhật Bản Tonneruzu no Minasan no Okage deshita trên Fuji TV.
Năm 2009, họ tiếp tục với một trò chơi truyền hình khác Hvem kan slå Ylvis (Ai đánh bại được Ylvis?) dựa trên một chương trình của Đức Schlag den Raab (Đánh bại Raab). Hai anh em là đội trưởng của hai đội gồm những người nổi tiếng được mời đến để vượt qua những thử thách với phần thưởng lên đến một triệu kroner Na Uy cho đội thắng cuộc.
Năm 2010, họ đóng vai trò làm host trong chương trình Nordens herligste (Những điều tuyệt nhất xứ Bắc Âu), một phiên bản khác dành cho vùng Bắc Âu.
Năm 2011, họ trở lại với chương trình tạp kĩ Ylvis 4 tại nhà hát Ole Bull, toàn bộ vé của chương trình đều đã được bán ra hết trước đêm khai mạc. Cùng năm đó, hai anh em cũng tung ra một chương trình đàm thoại I kveld med Ylvis (Chuyện tối cùng Ylvis) trên TVNorge cùng với người bạn đồng hành Calle Hellevang-Larsen đến từ nhóm hài Raske Menn.
Sau khi gia hạn cho mùa 2, hai anh em đã thành lập công ty sản xuất Concorde TV nhằm duy trì quyền kiểm soát và sáng tạo cho công việc của họ. Mùa 2 đã lên sóng vào năm 2012 cùng với David Batra trong vai trò là bạn đồng hành thay vì Calle Hellevang-Larsen như trước đây. Mùa thu 2013, Calle Hellevang-Larsen trở lại trong mùa 3 của I kveld med Ylvis. Mặc dù gặp nhiều khó khăn trong quá trình quảng bá, tập đầu tiên của mùa 3 vẫn đạt được vị trí đầu bảng xếp hạng.
Một số phim hài và video âm nhạc parody sử dụng để quảng bá cho chương trình đã được phát hành trên Youtube và các phương tiện truyền thông khác. The fox và Stonehenge cũng đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn. Phát hành ngày 3 tháng 9 năm 2013, The fox được sản xuất bởi StarGate và M4SONIC nhằm mục đích quảng bá cho mùa 3 I kveld med Ylvis đã lan truyền trên Youtube một cách nhanh chóng và trở thành video được xem nhiều nhất trên Youtube năm 2013. Video này đã đạt được hơn 500 triệu lượt xem trên Youtube vào tháng 6 năm 2015.
Ylvis đã nhận được thêm nhiều lời mời phỏng vấn, biểu diễn âm nhạc, hợp đồng thu âm của các hãng đĩa lớn từ nhiều nước sau khi nổi lên từ The fox. Buổi diễn đầu tiên của họ ở nước ngoài là trong The Ellen DeGeneres Show ở Mỹ ngày 20 tháng 9 năm 2013. Họ cũng đã xuất hiện tại Liên hoan Âm nhạc iHeartRadio tại Las Vegas vào ngày hôm sau. Ngày 9 tháng 10 năm 2013, Jimmy Fallon mời họ đến chương trình Late Night with Jimmy Fallon (Chuyện tối với Jimmy Fallon) để trình diễn trực tiếp. Ngày 11 Tháng 10 năm 2013, họ đã biểu diễn bên ngoài phòng thu trong The Today show. Ngày 15 Tháng 11 năm 2013 họ biểu diễn ở BBC Children In Need cùng với Jedward, The Cheeky Girls và Bucks Fizz. Ngày 22 Tháng 11 2013 Ylvis tham dự Mnet Asian Music Awards lần đầu tiên, và đã nhận được giải thưởng Nghệ sĩ yêu thích quốc tế. Ngày 12 tháng 12 năm 2013, họ xuất hiện trên Live! với Kelly và Michael để giới thiệu cuốn sách mới dành cho trẻ em mang tên What does the fox say? và sau đó là một màn trình diễn. Cuốn sách What does the fox say? khi ra mắt đã đạt được vị trí số 1 trong danh sách bán chạy nhất của tờ The New York Times.
Ngày 15 tháng 10 năm 2014, Ylvis phát hành một đĩa đơn mang tên I Will Never Be A Star trên iTunes, được thu âm bởi người em trai của mình, Bjarte Ylvisåker. Cùng năm đó, mùa 4 của I kveld med Ylvis cũng được ra mắt và phát sóng trực tiếp trên sóng truyền hình. Sau thành công của mùa 4, họ quyết định dừng chương trình.
Đến ngày 4 tháng 6 năm 2015, họ lại ký hợp đồng với TVNorge và tiếp tục chuẩn bị cho mùa 5 của I kveld med Ylvis.
Chương trình truyền hình | |||
---|---|---|---|
Năm | Tiêu đề | Vai trò | Ghi chú |
2007-2008 | Norges herligste (Những điều tuyệt vời nhất của Na Uy) | Dẫn chương trình | 14 tập |
2008 | Ylvis møter veggen (Ylvis đối mặt bức tường) | 10 tập | |
2009 | Hvem kan slå Ylvis (Ai đánh bại được Ylvis?) | 8 tập | |
2010 | Nordens herligste (Những điều tuyệt nhất xứ Bắc Âu) | 9 tập | |
2011-nay | I kveld med Ylvis (Chuyện tối cùng Ylvis) | 71 tập | |
Sân khấu | |||
Năm | Tiêu đề | Vai trò | Ghi chú |
2000-2001 | Ylvis en kabaret | Nhiều vai trò | |
2001 | Ylvis Goes Philharmonic | ||
2002 | Ylvis Goes Philharmonic - Phần 2 | ||
2003-2005 | Ylvis en konsert | ||
2007-2009 | Ylvis III | Hơn 200 màn trình diễn | |
2011-2013 | Ylvis 4 | ||
2014-2015 | The Expensive Jacket Tour | Ca sĩ | 21 buổi biểu diễn ở Na Uy và Thụy Điển |
Đài phát thanh | |||
Năm | Tiêu đề | Vai trò | Ghi chú |
2006 | O-fag | Dẫn chương trình | |
2008 |
Năm | Tiêu đề | Vị trí cao nhất trên bảng xếp hạng | Album | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Na Uy | Úc | Canada | Đan Mạch | Phần Lan | New Zealand | Thụy Điển | Thụy Sĩ | Anh | Mĩ | |||
2000 | Rumour Says | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — | Không có đĩa đơn |
2004 | Kjempeform | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — | |
2011 | Stonehenge | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — | |
La Det På Is | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — | ||
Sammen Finner Vi Frem | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — | ||
Work It | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — | ||
2012 | Jeg Heter Finn | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — | |
Someone Like Me | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — | ||
Janym (Жаным) | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — | ||
Jan Egeland | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — | ||
Pressure | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — | ||
Da Vet Du At Det Er Jul | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — | Ylvis Volume 1 | |
2013 | The fox (What does the fox say?) | 1 | 19 | 9 | 2 | 4 | 3 | 45 | 17 | 6 | Không có đĩa đơn | |
The Cabin | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — | Ylvis Volume 1 | |
Massachusetts | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — | ||
2014 | Trucker's Hitch | 10 | — | — | — | — | — | — | — | — | — | |
Mr.Toot | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — | ||
Yoghurt | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — | ||
Ytterst På Tissen | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — | ||
Intolerant | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — | ||
Shabby Chic | — | — | — | — | — | — | — | — | — | — |
Năm | Giải thưởng | Thể loại | Đề cử cho | Người nhận | Kết quả |
---|---|---|---|---|---|
2001 | Komiprisen | Best Ensemble | Ylvis | Đề cử | |
2007 | Komiprisen | The Year's Funniest (Audience Award) | Ylvis III | Ylvis | Đề cử |
2008 | Gullruten | People's prize | Bård and Vegard Ylvisåker | Đề cử | |
2011 | Komiprisen | The Year's Numbers | Ylvis 4 | Ylvis | Đề cử |
Komiprisen | The Year's Funniest (Audience Award) | Ylvis 4 | Ylvis | Đề cử | |
2012 | Gullruten | TV Name Of The Year | Bård and Vegard Ylvisåker | Đề cử | |
Komiprisen | The Year's Funniest | I Kveld Med Ylvis | Ylvis | Đề cử | |
Komiprisen | Best Performance - TV/Film | I Kveld Med Ylvis | Ylvis | Đoạt giải | |
Gullruten | Best New Programme | I Kveld Med Ylvis | Ylvis | Đề cử | |
Gullruten | Best Male Presenter | Bård Ylvisåker | Đề cử | ||
Gullruten | Best Entertainment | I Kveld Med Ylvis | Ylvis | Đề cử | |
2013 | Mnet Asian Music Awards | International Favorite Artist | Ylvis | Đoạt giải | |
Komiprisen | Best male artist, TV/Film/Net | Bård Ylvisåker | Đề cử | ||
2014 | World Music Awards | World's Best Video | The Fox (What Does the Fox Say?) | Ylvis | Đề cử |
World Music Awards | World's Best Song | The Fox (What Does the Fox Say?) | Ylvis | Đề cử | |
World Music Awards | World's Best Group | Ylvis | Đề cử | ||
MTV Millennial Awards | Viral Video Of The Year | The Fox (What Does the Fox Say?) | Ylvis | Đoạt giải | |
Gullruten | TV Moment Of The Year | The Fox (What Does the Fox Say?) | Ylvis | Đoạt giải | |
Komiprisen | The Year's Male TV Comedian | Bård Ylvisåker | Đề cử | ||
Radio Disney Music Awards | Stuck In Our Heads – Catchiest New Song | The Fox (What Does the Fox Say?) | Ylvis | Đoạt giải | |
Spellemannprisen | Hit Of The Year | The Fox (What Does the Fox Say?) | Ylvis | Đoạt giải | |
Gullruten | Best Event | Live: I kveld med Ylvis | Ylvis | Đề cử | |
Gullruten | Audience Award | Ylvis | Đề cử | ||
2015 | Gullruten | TV Moment Of The Year | Ylvis and Charter-Svein - I kveld med Ylvis Live! | Ylvis and Charter-Svein | Đề cử |
Nordic Music Video Awards | Post Production | Ytterst På Tissen | Ylvis | Đề cử | |
Nordic Music Video Awards | Music Video Of The Year | Intolerant | Ylvis | Đề cử | |
Nordic Music Video Awards | GAFFA Audience Award | Intolerant | Harald Zwart (director) | Đoạt giải | |
Gullruten | Best Male TV Host | I kveld med Ylvis LIVE | Bård Ylvisåker | Đề cử | |
Gullruten | Best Entertainment Program | I kveld med Ylvis LIVE | Ylvis | Đề cử | |
Nordic Music Video Awards | Best Artist Performance | I Will Never Be A Star | Bjarte Ylvisåker và Ole Martin Hafsmo | Đoạt giải | |
Berlin Video Music Awards | Best Animation | Ytterst På Tissen | Julian Nazario Vargas, Animaskin | Đề cử | |
Gullruten | Audience Award | Vegard Ylvisåker, Bård Ylvisåker | Đề cử |