F-104S Starfighter | |
---|---|
F-104S tại một bảo tàng | |
Kiểu | Máy bay tiêm kích đánh chặn |
Hãng sản xuất | Aeritalia |
Thiết kế | Lockheed |
Chuyến bay đầu tiên | 22 tháng 12-1966 |
Được giới thiệu | 1969 |
Ngừng hoạt động | 2004 |
Khách hàng chính | Không quân Ý Không quân Thổ Nhĩ Kỳ |
Số lượng sản xuất | 246 |
Được phát triển từ | F-104 Starfighter |
Aeritalia F-104S Starfighter là phiên bản do Ý chế tạo của loại máy bay tiêm kích Lockheed F-104 Starfighter, nó được trang bị cho không quân Ý (AMI, Aeronautica Militare Italiana). F-104S cũng được Không quân Thổ Nhĩ Kỳ sử dụng cho đến giữa thập niên 1990. F-104S cũng là sự phát triển cuối cùng đối với F-104 Starfighter.
Có nguồn gốc từ các nghiên cứu thiết kế của Lockheed về "Super Starfighter", F-104S là một trong những phiên bản hiện đại nhất của dòng F-104. F-104S (nâng cấp lên chuẩn ASA/M) ngừng hoạt động vào tháng 10/2004.
Dòng F-104 bước vào giai đoạn phát triển thứ hai với F-104G. Trong khi Không quân Hoa Kỳ (USAF) không còn quan tâm tới F-104, thì Lockheed đã đề xuất Model CL-901 với động cơ J79-GE-19 mới và tên lửa Sparrow III mới; "G" là ký hiệu của "Germany" (Đức), đây là quốc gia đã phát triển cùng Lockheed để ra phiên bản F-104G, trong khi "S" là viết tắt của từ "Sparrow" nghĩa là phiên bản "Sparrow" cải tiến.[1] Những phát triển đề xuất khác gồm CL-958 với cánh lớn hơn, CL-981 với cánh mũi sau buồng lái, và CL-984 tối ưu cho các nhiệm vụ đột kích độ cao thấp. Một chiếc RF-104G được sửa đổi và bay vào tháng 12/1966 là mẫu thử của CL-901 "Super Starfighter". CL-901 có lối dẫn khí lớn hơn một chút và van bằng thép bên trong cho phép nhiệt độ hoạt động từ 121 °C đến 175 °C, và đạt tốc độ tối đa lên tới Mach 2,2.
Trong 5 năm đầu tiên phục vụ ở Ý, 23 chiếc F-104G đã bị mất, chỉ còn 80 tới 90 chiếc F-104 (trên tổng số 149 chiếc đã mua) ở điều kiện hoạt động tốt, nên Ý quyết định mua một máy bay tiêm kích đánh chặn và tiêm kích-bom mới để tăng cường cho các đơn vị ở tiền tuyến.
Không quân Ý (AMI) vào giữa thập niên 1960 đã đưa ra ban hành chương trình "AW-X" (All-Weather-X aircraft – máy bay Mọi thời tiết X) về một loại máy bay tiêm kích mọi thời tiết mới, từ đó đã dẫn tới việc đánh giá các loại máy bay có sẵn sau: McDonnell Douglas F-4B/C Phantom, Mirage IIIC-1, BAC Lightning và North American F-100S Super Sabre. Sự lựa chọn cuối cùng là Lockheed CL-980 (một phiên bản đơn giản hóa với cùng kiểu cánh của Model CL-901). Ngày 26/1/1996, AMI chọn F-104S làm máy bay tiêm kích tương lai của mình. Chiếc F-104S đầu tiên là một chiếc F-104G do Fiat sửa đổi có số seri 'MM6658, đóng vai trò như một mẫu thử khí động và bay lần đầu ngày 22/12/1966,[2] mẫu thử thứ hai MM6660 lắp hệ thống điện tử mới gần với cấu hình cuối cùng bay ngày 28/2/1967.[3] MM.6701 là chiếc F-104S được hãng Aeritalia sản xuất đầu tiên bay ngày 30/12/1968.[2]
F-104S được thiết kế để mang tên lửa AIM-7 Sparrow (bỏ đi pháo Vulcan). Trong vai trò cường kích, F-104S có 9 giá treo, có thể mang tới 7 quả bom 227 kg (500 lb) hoặc 340 kg (750 lb); về mặt lý thuyết một chiếc F-104S có thể mang 4 tới 5 quả bom, 2 thùng nhiên liệu phụ và 2 tên lửa AIM-9.
Loại máy bay mới này được đưa vào biên chế giữa năm 1991, thuộc 22° Gruppo (51° Stormo);[4] trong năm đó, F-104S đã tích lũy được 460 giờ bay.
AMI mua 205 chiếc, tất cả giao hàng từ năm 1969 tới 1979[5], 100 chiếc giao tháng 1/1973, chiếc thứ 200 giao tháng 5/1976.[2] F-104S được chế tạo thành 2 phiên bản; một phiên bản đánh chặn trang bị tên lửa AIM-7 Sparrow (pháo M61 Vulcan bị loại bỏ); và phiên bản tiêm kích-bom, giữ lại pháo và bom cũng như các vũ khí không đối diện khác. Các phiên bản có thể hoán đổi cho nhau, nên không rõ có bao nhiêu chiếc mỗi phiên bản được chế tạo.
Các phi đoàn của AMI trang bị F-104G và S là: 9, 10, 12, 18 (đánh chặn, tiêm kích-bom), 20 (huấn luyện), 21, 22, 23, 28, 102 (trinh sát), 154, 155 và 156 (ném bom)
Động cơ J79-GE-19 cho phép F-104S có vận tốc leo cao nhanh hơn, đạt vận tốc Mach 2 tại độ cao 12.000 m (39.370 ft) trong khoảng 5 phút.
Napoleone Bragagnolo một phi công thử nghiệm cho Aeritalia, đã hạ cánh tại Ciampino, Roma, sau 19 phút và 30 giây kể từ khi cất cánh từ Torino. Trong chuyến bay này máy bay mang theo 2 thùng nhiên liệu phụ, bay lên độ cao 15 km (49.213 ft) và tăng tốc lên vận tốc Mach 2. Máy bay vẫn còn 1.300 l (290 imp gal; 340 US gal) nhiên liệu sau khi hạ cánh; đủ để đến Palermo với vận tốc cận âm. Vận tốc trung bình trong chuyến bay là Mach 1,5. Ngay cả với những chiếc Starfighter mới, tỉ lệ tổn thấ vận ở mức cao, đỉnh điểm là vào năm 1973 và 1975 (10 chiếc F-104 thuộc mọi phiên bản của AMI đã bị mất khi đang hoạt động). Tính đến năm 1997, Ý đã mất 137 (chiếm 38%) chiếc F-104 trong tổng số giờ bay là 928.000 giờ bay (trung bình mất 14,7 chiếc cho 100.000 giờ). Mặc dù tỉ lệ này đã giảm xuống vào thập niên 1980 (33 chiếc giai đoạn 1981-1990), cuộc tranh luận về độ tin cậy của F-104 vẫn thường diễn ra khốc liệt trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thập niên 1980, tỉ lệ tổn thất đã giảm xuống, thậm chí nhiều hơn so với thập niên 1990, khi tất cả các phiên bản cũ (trừ TF-104) bị loại bỏ. Chiếc F-104 cuối cùng của Ý ngừng hoạt động năm 2004, F-104 đã bay khoảng 1 triệu giờ bay trong 40 năm phục vụ.
Thổ Nhĩ Kỳ là khách hàng của Aeritalia F-104S. Đơn đặt hàng đầu tiên được ký năm 1974, mua một lô 18 chiếc và được đưa vào trang bị tháng 12/1974. Những máy bay đầu tiên này là một món quà từ Libya; phần thưởng cho sự hỗ trợ kỹ thuật của Thổ Nhĩ Kỳ để cải thiện năng lực của Không quân Libya.[6] 18 chiếc khác được đặt hàng vào tháng 5/1975, cuối cùng tăng lên thành 40 chiếc, nhưng một lô khác (20 chiếc) đã bị hủy, có lẽ vì F-4 đã được giao cho Thổ Nhĩ Kỳ. Chúng phục vụ trong các đơn vị 142 và 182 Filo từ thập niên 1970, khoảng một tá F-104S vẫn phục vụ cho đến giữa thập niên 1990. Dù 200 tên lửa Selenia AIM-7 được mua, nhưng F-104S ít khi mang chúng, do đó chủ yếu F-4E được trang bị loại tên lửa này.
2 chương trình nâng cấp đã được thực hiện trước khi AMI đưa vào trang bị Eurofighter Typhoon, kết quả là F-104S-ASA và F-104S-ASA/M.
F-104ASA (Aggiornamento Sistemi d'Arma), được phát triển vào năm 1986, dùng một radar Fiar Setter, có khả năng 'look-down' và tương thích với tên lửa Selenia Aspide. AIM-9L sau đó được dùng như vũ khí chính thay thế các phiên bản "B" và "F" của loại tên lửa này, trong khi tên lửa AIM-7 cũ hơn vẫn được giữ lại. Mỗi cánh thường mang 1 tên lửa AIM-7. Tổng cộng có 147 khung thân của F-104S được chuyển đổi thành chuẩn ASA với chi phí khoảng 600 tỉ lire, chiếc ASA cuối cùng được gioa vào đầu thập niên 1990.
Gói nâng cấp ASA/M (ban đầu được gọi là gói nâng cấp 'ECO' (Estensione Capacità Operative)) tập trung vào việc cải thiện độ tin cậy hơn là cải tiến khả năng chiến đấu, có 49 chiếc ASA được nâng cấp. 15 chiếc TF-104G cũng được tham gia vào chương trình này.
Dữ liệu lấy từ "Jane's All the World's Aircraft, 1976-1977"[2]