Chi Sargocentron được ghi nhận lần đầu tiên từ vùng biển gần bờ của Malta ở Địa Trung Hải. Hai cá thể được thu thập ở bờ bắc đảo Gozo và bờ tây đảo Malta, tuy nhiên vẫn chưa xác định được loài Sargocentron nào. Qua đối chiếu các đặc điểm hình thái ở 33 loài Sargocentron, các nhà ngư học đã loại trừ và đưa ra hai loài có khả năng phù hợp với hai cá thể Malta đó, là S. rubrum và Sargocentron hastatum, mặc dù rõ ràng là không thể kết luận việc xác định loài chỉ dựa trên các bức ảnh. Trong trường hợp có nhiều loài ẩn sinh (cryptic species) như những loài thuộc chi Sargocentron, việc sử dụng các công cụ phân tích phân tử, bao gồm mã vạch DNA, nên được áp dụng.[12]
Môi trường sống của cá sơn đá đỏ là trên các rạn san hô trong vũng thủy triều, đầm phá, vịnh và ngoài khơi, thường thấy hơn ở những khu vực có dòng chảy mạnh, độ sâu đến ít nhất là 84 m.[13] Loài này ít phụ thuộc vào môi trường sống rạn san hô hơn những loài sơn đá khác, hay ẩn mình trong các hang hốc và khe đá vào ban ngày.[1]
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở cá sơn đá đỏ là gần 36 cm.[14] Loài này có màu đỏ tươi hoặc đỏ nâu với các sọc ngang màu trắng bạc. Một vệt đỏ nâu trên má, từ mắt xuống xương trước nắp mang. Vài cá thể có vệt nâu bên dưới vây lưng mềm và một đốm tròn phía trên gốc vây hậu môn. Gai vây lưng màu đỏ với một dải giữa gồm các đốm trắng dính nhau, màng gai có màu trắng ở chóp. Rìa trên và dưới của vây đuôi màu đỏ nâu; phần còn lại của vây đuôi cũng như vây lưng mềm và vây hậu môn có màu vàng nhạt. Gai trước của vây bụng và vây hậu môn màu trắng. Vây bụng đỏ. Vây ngực trong mờ, màu vàng hoặc đỏ.
Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 12–14; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–10; Số tia vây ở vây ngực: 13–15; Số vảy đường bên: 34–38.[8]
Thức ăn chủ yếu của cá sơn đá đỏ là các loài cua và tôm, cũng săn cá nhỏ làm mồi.[13] Ở bờ biển Địa Trung Hải thuộc Israel, cá sơn đá đỏ có mùa sinh sản ngắn kéo dài từ tháng 7 đến tháng 8.[15]
^Christopher Scharpf biên tập (2019). “Order Holocentriformes”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
^R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). “Holocentrum rubrum”. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2023.
^ abJohn E. Randall & David W. Greenfield (1999). “Holocentridae”(PDF). Trong Kent E. Carpenter & Volker H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Vol.4. Bony fishes part 2. Roma: FAO. tr. 2251. ISBN92-5-104301-9.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
^Levent Artüz, M.; Golani, Daniel (2018). “First and Most Northern Record of Sargocentron rubrum (Forsskål, 1775) from the Sea of Marmara”. Thalassas: An International Journal of Marine Sciences. 34 (2): 377–381. doi:10.1007/s41208-018-0075-0. ISSN2366-1674.
^ abRanier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Sargocentron rubrum trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
^Kabakli, Ferhat; Erguden, Deniz (2022). “Age, Growth, and Mortality of the Redcoat Sargocentron rubrum (Forsskal, 1775), in Iskenderun Bay, Northeastern Mediterranean”. Thalassas: An International Journal of Marine Sciences. 38 (1): 103–111. doi:10.1007/s41208-021-00359-4. ISSN2366-1674.
^Golani, D.; Ben-Tuvia, A. (1985). “The biology of the Indo-Pacific squirrelfish, Sargocentron rubrum (Forsskal), a Suez Canal migrant to the eastern Mediterranean”. Journal of Fish Biology. 27 (3): 249–258. doi:10.1111/j.1095-8649.1985.tb04025.x. ISSN0022-1112.