Lutjanus carponotatus

Lutjanus carponotatus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Lutjaniformes
Họ (familia)Lutjanidae
Chi (genus)Lutjanus
Loài (species)L. carponotatus
Danh pháp hai phần
Lutjanus carponotatus
(Richardson, 1842)
Danh pháp đồng nghĩa
Danh sách
    • Mesoprion carponotatus Richardson, 1842
    • Mesoprion chrysotaenia Bleeker, 1851
    • Mesoprion naborer Montrouzier, 1857

Lutjanus carponotatus là một loài cá biển thuộc chi Lutjanus trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1842.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh được ghép bởi hai âm tiết: karpós (κᾰρπός trong tiếng Hy Lạp cổ đại; “cổ tay”) và notātus (trong tiếng Latinh; “có dấu”), hàm ý đề cập đến đốm đen bao phủ.[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ bờ đông Ấn Độ, L. carponotatus được phân bố trải dài về phía đông đến đảo New GuineaNew Ireland, giới hạn phía nam đến Úc, phía bắc đến bờ nam Trung Quốc.[1][3] L. carponotatus cũng được ghi nhận tại vùng biển Việt Nam.[4][5]

L. carponotatus sống tập trung trên các rạn san hô viền bờ và trong đầm phá ở độ sâu đến ít nhất là 80 m.[6]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở L. carponotatus là 40 cm.[6] Cá có màu nâu nhạt hoặc xanh xám ở vùng lưng và thân trên, thân dưới và bụng trắng hoặc phớt vàng. Các vây có màu vàng. Hai bên lườn có các sọc ngang màu vàng cam. Vây ngực có đốm đen ở gốc. Mẫu vật đánh bắt ở vùng nước sâu có thể có màu hồng với sọc vàng.

Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 14–16; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 9; Số tia vây ở vây ngực: 15–17; Số lược mang vòng cung thứ nhất: 15–18.[7]

Sinh học

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của L. carponotatus là các loài cá nhỏ hơn và các loài động vật giáp xác. Loài này thường hợp thành đàn có tới 20 đến 30 cá thể.[6]

L. carponotatus có thể sống đến 23 năm.[8]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

L. carponotatus được đánh bắt trong nghề cá thủ công, thương mại và cả trong câu cá giải trí.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Russell, B.; Carpenter, K. E.; Ambuali, A.; Al Buwaiqi, B.; Al Abdali, F. S. H.; Al Kindi, A. S. M.; Borsa, P.; Govender, A. Mesoprion carponotatus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2016: e.T194384A2327894. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-3.RLTL.T194384A2327894.en. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2023.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Lutjaniformes: Families Haemulidae and Lutjanidae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2023.
  3. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Sciaena carponotatus. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2023.
  4. ^ Nguyễn Hữu Phụng (2004). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
  5. ^ Lê Thị Thu Thảo (2011). “Danh sách các loài thuộc họ cá Hồng Lutjanidae ở vùng biển Việt Nam” (PDF). Hội nghị khoa học toàn quốc về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật lần thứ 4: 362–368. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2023.
  6. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Lutjanus carponotatus trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  7. ^ Gerald R. Allen (1985). “Lutjanus” (PDF). Vol.6. Snappers of the world. Roma: FAO. tr. 69–70. ISBN 92-5-102321-2.
  8. ^ Currey, Leanne M.; Simpfendorfer, Colin A.; Williams, Ashley J. (2009). “Resilience of reef fish species on the Great Barrier Reef and in Torres Strait” (PDF). Project Milestone Report: 1–32.