Từ định danh được ghép bởi hai âm tiết: karpós (κᾰρπός trong tiếng Hy Lạp cổ đại; “cổ tay”) và notātus (trong tiếng Latinh; “có dấu”), hàm ý đề cập đến đốm đen bao phủ.[2]
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở L. carponotatus là 40 cm.[6] Cá có màu nâu nhạt hoặc xanh xám ở vùng lưng và thân trên, thân dưới và bụng trắng hoặc phớt vàng. Các vây có màu vàng. Hai bên lườn có các sọc ngang màu vàng cam. Vây ngực có đốm đen ở gốc. Mẫu vật đánh bắt ở vùng nước sâu có thể có màu hồng với sọc vàng.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 14–16; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 9; Số tia vây ở vây ngực: 15–17; Số lược mang vòng cung thứ nhất: 15–18.[7]
^R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). “Sciaena carponotatus”. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2023.
Veilleux, Heather D.; van Herwerden, Lynne; Evans, Richard D.; Travers, Michael J.; Newman, Stephen J. (2011). “Strong genetic subdivision generates high genetic variability among eastern and western Australian populations of Lutjanus carponotatus (Richardson)”. Fisheries Research. 108 (1): 74–80. doi:10.1016/j.fishres.2010.11.026. ISSN0165-7836.