Phạm Duy Khiêm (1908-1974) là nhà giáo, nhà văn, cựu đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp và tại UNESCO. Ông là con trai nhà văn Phạm Duy Tốn (1881-1924) và anh cả của nhạc sĩ Phạm Duy.
Phạm Duy Khiêm sinh ngày 24 tháng 4 năm 1908 tại Hà Nội. Ông quê gốc ở làng Phượng Vũ, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội). Cha ông là nhà văn Phạm Duy Tốn.
Ông Phạm Duy Tốn mất sớm vì bệnh lao, năm 43 tuổi, để lại nhiều nợ nần. Lúc đó Phạm Duy Khiêm 15 tuổi. Mới học troisième (tức lớp 9 bây giờ), ông đã thay cha trở thành trụ cột của gia đình. Nhờ sự trợ giúp của một tư nhân, Phạm Duy Khiêm có thể tiếp tục việc học ở trường Albert Sarraut, Hà Nội.
Ông là một học sinh xuất sắc, giỏi nhất về cổ ngữ Latin, Hy Lạp, là người Việt Nam đầu tiên đỗ tú tài văn chương Pháp (Bac classique). Sau đó ông được học bổng sang Pháp theo học lớp dự bị văn chương tại trường Louis le Grande. Sau đó, Phạm Duy Khiêm đỗ vào trường Cao đẳng sư phạm của Pháp (École Normale Supérieure, rue d'Ulm), cùng khóa với René Billières, Thierry Maulier (nhà văn), Georges Pompidou (sau này là tổng thống Pháp), Leopold Senghor (sau này là tổng thống Sénégal), rồi đậu thạc sĩ văn phạm Pháp (Agrégée de grammaire). Ông là người Việt Nam đầu tiên đậu văn bằng này.
Năm 1935, ông về nước làm giáo sư tại trường Bưởi, rồi trường Albert Sarraut. Từ tháng 9 năm 1939 đến tháng 6 năm 1940, ông gia nhập quân đội kháng chiến Pháp chống phát xít Đức, nhưng rồi giải ngũ vì Thủ tướng Pháp Philippe Pétain nghị hòa với Đức, giải tán quân đội. Phạm Duy Khiêm trở về Việt Nam, tiếp tục dạy học, viết văn và làm báo. Năm 1950, mẹ ông từ trần. Ít lâu sau, ông rời Việt Nam sang sống hẳn tại Pháp.
Tháng 7 năm 1954, ông được Thủ tướng Quốc gia Việt Nam là Ngô Đình Diệm mời làm Bộ trưởng đặc nhiệm phủ thủ tướng, năm 1955 làm cao ủy, rồi làm đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp.
Đến năm 1957, ông được cử làm đại diện thường trực Việt Nam Cộng hòa cạnh tổ chức UNESCO. Nhưng sau đó vì bất đồng quan điểm với chính quyền đương thời nên ông không đảm nhận chức vụ này. Từ đó, ông bỏ nhiệm sở.
Ông ở lại Pháp làm giáo sư.
Ngày 5 tháng 7 năm 1957, ông nhận bằng tiến sĩ danh dự của Đại học Toulouse (Pháp).
Từ năm 1958 trở đi, Phạm Duy Khiêm sống ở Pháp bằng nhiều nghề: diễn thuyết, dạy học tư thục, đọc bản thảo để chọn tác phẩm và sửa lỗi cho các nhà in, sửa bài và duyệt sách cho Ủy ban xét lại Pháp ngữ...
Ngày 2 tháng 12 năm 1974, ông Phạm Duy Khiêm tự kết liễu đời mình tại nhà riêng ở nông trại La Hertaudrie, thuộc quận Montreuil le Henri, vùng Sarthe, cách Paris hơn 200 km, như ông đã nghĩ từ hồi còn trẻ:
Đối với gia đình, Phạm Duy Khiêm là người anh cả lạnh lùng và nghiêm khắc, một người chủ gia đình thực sự. Nhạc sĩ Phạm Duy nhớ lại trong hồi ký của ông: "Lúc còn bé, nếu tôi nhớ không lầm, tôi chỉ được đùa chơi với anh Khiêm có hai lần" và "Bây giờ sống chung với người anh, tôi không được đánh đàn. Muốn đàn ca phải chờ khi anh ấy vắng nhà. Có lần quá cao hứng nên không đề cao cảnh giác, người anh chợt về, giật cái đàn mandoline vứt xuống đất và thân tặng nhạc sĩ mầm non một trận đòn. Một lần khác, vào mùa hè, tôi đang nằm trên nền nhà đá hoa để hưởng cái mát dịu, anh Khiêm ở đâu về, sồng sộc tới chỗ tôi nằm, nắm cổ lôi dậy, phạt tôi quỳ trước sự ngạc nhiên của mẹ tôi: Ai cho mày nằm dưới đất? Quỳ xuống đó!" (Hồi ký Phạm Duy, trang 129).
Ở trường học, Phạm Duy Khiêm là một người thầy khắt khe. Với những học trò dốt, ông không ngần ngại cho điểm âm. Học trò người Việt oán vì thầy không nâng đỡ người Việt. Học trò người Pháp căm giận vì bị một người thầy bản xứ sỉ nhục. Việc Phạm Duy Khiêm tự nguyện đi lính cho Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ hai cũng là một hành động khó hiểu.
Khi làm chính trị, nhận chức vụ đại sứ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, Phạm Duy Khiêm hết sức ngay thẳng, không sợ mọi áp lực cửa quyền. Đó được cho là lý do khiến ông không làm đại sứ cho ông Ngô Đình Diệm được lâu. Sau này, khi Georges Pompidou lên làm tổng thống Pháp, ngỏ ý muốn gặp, Phạm Duy Khiêm thẳng thắng trả lời: rất vui mừng gặp lại bạn học cũ, nhưng đến yết kiến tổng thống thì không! Khi Léopold Senghor, tổng thống Sénégal, một người bạn học cũ khác, cũng là một nhà thơ nổi tiếng, gửi tặng một tập thơ, Phạm Duy Khiêm gửi trả lại với những lời phê, gạch đỏ, của một người thầy.
Đánh giá về tính cách Phạm Duy Khiêm, Thụy Khuê viết:
Hầu như tất cả các tác phẩm của Phạm Duy Khiêm đều được viết bằng tiếng Pháp.
Tác phẩm đáng chú ý đầu tiên của ông là De Hà Nội à La Courtine (Từ Hà Nội đến La Courtine), một tự truyện viết về thời gian ông đầu quân chống Đức, ký bút hiệu Nam Kim, do nhà xuất bản Taupin in lần đầu tại Hà Nội năm 1941. Năm 1958, nhà xuất bản Plon in lại cuốn này tại Paris, đổi tên thành La place d'un homme (Vị thế một con người). Đây là một trong ba tác phẩm chính của Phạm Duy Khiêm.
Năm 1942, ông viết tiếp De Courtine à Vichy (Từ Courtine đến Vichy), cuốn này bị cấm xuất bản.
Tác phẩm thành công nhất của Phạm Duy Khiêm có lẽ là Légendes des terres sereines (Huyền truyện miền thanh lãng), nội dung hòa hợp giữa cổ tích, huyền thoại, giai thoại và thực tế. Tác phẩm được tiếp đón nồng nhiệt ngay từ lúc ra đời, đoạt giải Văn chương Đông Dương (Prix littéraire de l'Indochine). Nhà xuất bản Taupin in đi in lại ba lần cuốn này chỉ trong năm 1943. Năm 1997, Légendes des terres sereines lại được nhà xuất bản Philippe Piquier tái bản dưới dạng sách bỏ túi
Tiếp đó ông viết La jeune femme de Nam Xương (Thiếu phụ Nam Xương, Taupin, 1944).
Tác phẩm quan trọng thứ ba của Phạm Duy Khiêm là cuốn tiểu thuyết Nam et Sylvie (Nam và Sylvie) cũng là một tự truyện (Plon, 1957, Paris), đoạt giải Louis Barthou của Viện Hàn Lâm Pháp.
Cuối cùng phải kể đến cuốn Ma mère (Mẹ tôi), chưa xuất bản, mặc dù năm 1972, khi giáo sư Nguyễn Đình Hòa từ Mỹ sang Pháp thăm Phạm Duy Khiêm hai năm trước khi ông mất, đã ngỏ ý muốn đưa bản thảo về Mỹ để dịch sang tiếng Anh và in tại Hoa Kỳ, nhưng Phạm Duy Khiêm từ chối vì muốn nguyên bản Pháp văn phải in tại Pháp trước.
Tác phẩm của Phạm Duy Khiêm hầu hết viết bằng tiếng Pháp. Khi chọn tiếng Pháp làm ngôn ngữ văn chương, ông đã có chủ đích muốn truyền bá văn hóa Việt Nam và tạo uy danh cho Việt Nam trên văn đàn thế giới qua một thứ tiếng thông dụng.
Mục đích này của Phạm Duy Khiêm thể hiện rõ rệt nhất qua tác phẩm Légendes des terres sereines (Huyền truyện miền thanh lãng). Được viết hoàn toàn bằng tiếng Pháp, cuốn sách là sự sáng tác lại ba mươi truyện cổ tích hoặc giai thoại văn hóa Việt Nam và Trung Quốc, nhưng có ảnh hưởng mạnh ở Việt Nam như Trương Chi, Khuất Nguyên, Quan Âm Thị Kính, Hòn Vọng Phu, Từ Thức, Sự tích con muỗi, Giấc mộng Nam Kha, Mỵ Châu Trọng Thủy, Trang Tử khóc vợ, Chử Đồng Tử và Tiên Dung, Nhị Khanh, Sự tích con dã tràng, Trầu cau...
Légendes des terres sereines không chỉ là những cổ tích hiểu theo nghĩa thông thường. Phạm Duy Khiêm dùng cổ tích như cái cớ sáng tạo và truyền bá tư tưởng. Ông viết lại cổ tích với văn phong đầy chất thi ca và hướng về độc giả Tây phương, ông tìm cách giải thích những mấu chốt trong tâm hồn Việt, trong văn hóa Việt, xuyên qua ý nghĩa các huyền thoại.
Thụy Khuê bình luận:
Dù các tác phẩm đều viết bằng tiếng Pháp, điều kỳ lạ là trong những câu chuyện của Phạm Duy Khiêm luôn thể hiện lòng tự hào dân tộc, về đất nước Việt Nam nơi ông sinh ra, chứ không phải nước Pháp nơi ông học tập và trưởng thành, một cách sâu lắng, tinh tế và đầy tính nhân bản.
Điều này thể hiện rõ rệt nhất qua hai tác phẩm, De Hà Nội à La Courtine (hay La place d'un homme) và Nam et Sylvie.
Từ khi còn học trường Cao đẳng sư phạm rue d'Ulm, Phạm Duy Khiêm đã thể hiện rõ quan điểm sáng tác của mình khi ông diễn thuyết trong trường, hoặc viết báo để phổ biến văn hóa Việt và đáp trả những hành động phỉ báng người Việt trong các tác phẩm văn hóa Pháp.
De Hanoi à la Courtine là một tự truyện được viết dưới dạng những bức thư của một người lính tên là Nam Liên, gửi cho những người quen xa gần ở Pháp và An Nam. Cuốn sách phần nào hé lộ những đấu tranh tuyệt vọng của Phạm Duy Khiêm, cả về tư tưởng lẫn hành động, vì quyền ngang bằng giữa "indigène", hay người bản xứ An Nam và người Pháp ở mẫu quốc. Ông viết:
Nam et Sylvie, tác phẩm được giải Louis Barthou năm 1957, lại là một tự truyện nữa. Phạm Duy Khiêm đã dành mười năm để viết hơn hai ngàn trang cuốn tiểu thuyết phóng tác theo nhật ký đồ sộ này. Nam et Sylvie chính là những mảnh nhật ký của cuộc đời ông sau 20 năm nhìn lại, với khoảng cách không gian và thời gian. Câu chuyện kể về tình yêu của một chàng trai An Nam với một cô gái Pháp, những giằng xé nội tâm của Nam ở đất Pháp trọ học và đất Việt quê hương, giữa người Pháp thực dân và người Pháp bản xứ...
Thụy Khuê đánh giá:
Trong tác phẩm, Nam nói, như chính Phạm Duy Khiêm nói, trong cảnh chia tay Sylvie ở bến tàu:
Khi tự đánh giá về mình, Phạm Duy Khiêm nói:
Trong lĩnh vực chính trị ông khẳng định:
Cố tổng thống Pháp Georges Pompidou viết về ông: