Cộng hòa Sénégal
|
|||||
---|---|---|---|---|---|
Tên bằng ngôn ngữ chính thức
| |||||
| |||||
Bản đồ Vị trí của Sénégal (xanh) trên thế giới Vị trí của Sénégal (xanh đậm)
– ở châu Phi (xanh nhạt & xám đậm) | |||||
Tiêu ngữ | |||||
"Un Peuple, Un But, Une Foi"(tiếng Pháp) "Một Con người, Một Mục tiêu, Một Niềm tin" | |||||
Quốc ca | |||||
Pincez Tous vos Koras, Frappez les Balafons Mọi người hãy gãy kora, đánh balafon | |||||
Hành chính | |||||
Cộng hòa bán tổng thống | |||||
Tổng thống | Bassirou Diomaye Faye | ||||
Thủ tướng | Ousmane Sonko | ||||
Lập pháp | Quốc hội | ||||
Thượng viện | Thượng viện Sénégal (đã giải thể) | ||||
Hạ viện | Hội đồng Quốc gia | ||||
Thủ đô | Dakar | ||||
Thành phố lớn nhất | Dakar | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 196.712 km² 76.000 mi² (hạng 87) | ||||
Diện tích nước | 2,1 % | ||||
Múi giờ | GMT (UTC+0) | ||||
Lịch sử | |||||
Độc lập | |||||
4 tháng 4 năm 1960 | từ Phápa | ||||
20 tháng 8 năm 1960 | Tách ra từ Liên bang Mali | ||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Pháp | ||||
Ngôn ngữ quốc gia | |||||
Sắc tộc ([1]) |
| ||||
Tôn giáo | Hồi giáo | ||||
Dân số ước lượng (2021) | 17.160.440 người (hạng 72) | ||||
Dân số (2016) | 14.668.522 người | ||||
Mật độ | 68,7 người/km² (hạng 134) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2020) | Tổng số: 66,438 tỷ USD[2] (hạng 99) Bình quân đầu người: 3.675 USD[2] (hạng 158) | ||||
GDP (danh nghĩa) (2020) | Tổng số: 28,02 tỷ USD[2] (hạng 105) Bình quân đầu người: 1.675 USD[2] (hạng 149) | ||||
HDI (2019) | 0,512[3] thấp (hạng 168) | ||||
Hệ số Gini (2011) | 40,3[4] | ||||
Đơn vị tiền tệ | CFA franc (XOF ) | ||||
Thông tin khác | |||||
Mã điện thoại | +221 | ||||
Lái xe bên | phải | ||||
Ghi chú
|
Sénégal (tiếng Pháp: Sénégal, tiếng Wolof: Senegaal; tiếng Ả Rập: السنغال Alsinighal; phiên âm: Xê-nê-gan), tên chính thức Cộng hòa Sénégal (tiếng Pháp: République du Sénégal [ʁepyblik dy seneɡal], tiếng Wolof: Réewum Senegaal, tiếng Ả Rập: جمهورية السنغال Jumhuriat Alsinighal), là một quốc gia tại Tây Phi. Sénégal giáp Mauritanie về phía bắc, Mali về phía đông, Guinée về phía đông nam, và Guiné-Bissau về phía tây nam. Sénégal vây quanh ba phía Gambia, một quốc gia có lãnh thổ là những dải đất hai bờ sông Gambia, chia tách Casamance khỏi phần còn lại của Sénégal. Sénégal cũng có biên giới trên biển với Cabo Verde. Trung tâm kinh tế và chính trị của Sénégal là Dakar.
Sénégal nằm ở cực tây của Lục địa Phi-Á Âu,[5] và lấy tên từ sông Sénégal. Sénégal có diện tích chừng 197.000 kilômét vuông (76.000 dặm vuông Anh) và dân số khoảng 16 triệu người. Đất nước được tách ra từ Tây Phi thuộc Pháp sau khi Pháp trao trả độc lập, ngôn ngữ chính thức là tiếng Pháp. Giống như các quốc gia châu Phi thời hậu thuộc địa khác, đất nước này bao gồm nhiều cộng đồng dân tộc và ngôn ngữ, với cộng đồng lớn nhất là người Wolof, người Fula, và người Serer.
Senegal được xếp vào nhóm quốc gia nghèo mắc nợ nhiều, với Chỉ số Phát triển Con người tương đối thấp. Phần lớn dân số sống trên bờ biển và làm nông nghiệp hoặc các ngành công nghiệp thực phẩm khác. Các ngành công nghiệp chính khác bao gồm khai thác mỏ, du lịch và dịch vụ. Khí hậu điển hình của vùng Sahel, nhưng có mùa mưa.
Senegal là một quốc gia thành viên của Liên minh châu Phi, Liên hợp quốc, Cộng đồng kinh tế của các quốc gia Tây Phi (ECOWAS) và Cộng đồng các quốc gia Sahel-Sahara.
"Senegal" có lẽ bắt nguồn từ phiên âm tiếng Bồ Đào Nha của tên thần Zenaga, còn được gọi là Sanhaja. Ngoài ra, cái tên này có thể bắt nguồn từ cụm từ Wolof Sunuu Gaal, có nghĩa là "con thuyền của chúng ta."
Những khám phá khảo cổ học trên cả vùng này cho thấy Sénégal từng là nơi có người sinh sống từ thời tiền sử. Hồi giáo, tôn giáo chính tại Sénégal, lần đầu tiên tới đây vào thế kỷ XI dưới sự ảnh hưởng của nhà Almoravid. Ngày nay, 95% dân số Sénégal là người Hồi giáo. Trong thế kỷ thứ XIII và XIV, vùng này nằm dưới ảnh hưởng của các đế chế Mandingo ở phía đông; Đế chế Jolof của Sénégal cũng được lập ra vào thời gian này. Nhiều cường quốc Châu Âu đã tới đây từ thế kỷ thứ XV trở về sau, và chỉ chấm dứt khi Pháp kiểm soát hoàn toàn địa điểm khi ấy đã trở thành một đầu mối buôn bán nô lệ quan trọng. Nước này giành lại độc lập từ Pháp ngày 4 tháng 4 năm 1960.
Tháng 1 năm 1959, Sénégal và Soudan thuộc Pháp hợp nhất thành lập ra Liên bang Mali, và đã trở thành hoàn toàn độc lập ngày 20 tháng 6 năm 1960, nhờ thỏa thuận chuyển giao quyền lực được ký với Pháp ngày 4 tháng 4 năm 1960. Vì những khó khăn chính trị trong nước, Liên bang tan rã ngày 20 tháng 8. Sénégal và Soudan (được đổi tên thành Cộng hoà Mali) tuyên bố độc lập. Léopold Senghor được bầu làm tổng thống đầu tiên của Sénégal vào tháng 8 năm 1960.
Sau khi Liên bang Mali tan vỡ, Tổng thống Senghor và Thủ tướng Mamadou Dia cùng cầm quyền theo một hệ thống nghị viện. Tháng 12 năm 1962, sự đối đầu chính trị của họ dẫn tới một cuộc đảo chính của Thủ tướng Dia. Cuộc đảo chính đẫm máu bị dẹp yên, Dia bị bắt và bị cầm tù, Sénégal chấp nhận một hiến pháp mới trao nhiều quyền cho Tổng thống. Năm 1980, Tổng thống Senghor quyết định giã từ chính trường, trao lại quyền lực cho người kế nhiệm đã được lựa chọn từ trước là Abdou Diouf năm 1981.
Sénégal cùng Gambia cùng tham gia vào liên đoàn chỉ mang tính danh nghĩa Senegambia ngày 1 tháng 2 năm 1982. Tuy nhiên, liên đoàn này đã giải tán năm 1989. Dù có những cuộc đàm phán hòa bình, một nhóm ly khai phía nam tại vùng Casamance đã tiến hành các cuộc xung đột rời rạc với các lực lượng chính phủ từ năm 1982. Sénégal có lịch sử tham gia vào các đội quân gìn giữ hòa bình quốc tế khá lâu dài.
Abdou Diouf làm tổng thống giai đoạn 1981 và 2000. Ông thúc đẩy sự tham gia rộng lớn hơn vào chính trị, giảm bớt sự tham gia của chính phủ vào kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại của Sénégal, đặc biệt với các nước phát triển. Tình hình chính trị trong nước thỉnh thoảng lại bùng phát với những cuộc bạo động đường phố, căng thẳng biên giới và bạo lực từ phong trào ly khai ở vùng Casamance phía nam. Tuy nhiên, những cam kết dân chủ và nhân quyền của Sénégal cũng được tăng cường. Diouf làm tổng thống bốn nhiệm kỳ liên tục. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2000, lãnh đạo đối lập Abdoulaye Wade đã đánh bại Diouf trong một cuộc bầu cử được các quan sát viên quốc tế cho là tự do và công bằng. Sénégal trải qua cuộc chuyển giao quyền lực trong hòa bình lần thứ hai, và là lần thứ nhất từ đảng này sang đảng khác.
Ngày 30 tháng 12 năm 2004 Tổng thống Abdoulaye Wade thông báo ông sẽ ký một hiệp ước hòa bình với nhóm ly khai tại vùng Casamance. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa được thực hiện.
Vào tháng 3 năm 2012, tổng thống đương nhiệm Abdoulaye Wade đã thua trong cuộc bầu cử tổng thống và Macky Sall được bầu làm Tổng thống mới của Senegal. Tổng thống Macky Sall tái đắc cử trong cuộc bầu cử năm 2019. Nhiệm kỳ tổng thống được giảm từ bảy năm xuống còn năm năm.
Sénégal là một nước cộng hòa trong đó tổng thống được trao nhiều quyền lực; tổng thống được bầu với nhiệm kỳ bảy năm, năm 2001 đã được sửa đổi thành nhiệm kỳ năm năm, theo phổ thông đầu phiếu. Tổng thống hiện tại là Macky Sall.
Sénégal có 65 đảng chính trị đóng góp vào sự phát triển của đất nước thông qua việc cùng hợp tác tiến tới một sự chuyển tiếp tới một nền dân chủ của đất nước, và thập chí trong số các nước phát triển tại lục địa châu Phi. Nghị viện một viện là Quốc hội có 120 thành viên được bầu cử riêng biệt với cuộc bầu cử tổng thống. Sénégal có một nhánh lập pháp, một nhánh hành pháp khá độc lập và công bằng. Tòa án cấp cao nhất của nước này là hội đồng hiến pháp, và tòa án công lý, các thành viên của hai tòa án này do tổng thống chỉ định.
Các hoạt động chính phủ Sénégal khá minh bạch. Mức độ tham nhũng kinh tế gây cản trở tới sự phát triển kinh tế đất nước khá thấp. Ngày nay Sénégal có một nền văn hóa chính trị dân chủ, là một trong những hình mẫu chuyển tiếp dân chủ thành công nhất tại Châu Phi.
Các quan chức hành chính địa phương đều được tổng thống chỉ định và chịu trách nhiệm trước tổng thống.
Cộng hoà Tổng thống. Tổng thống là Nguyên thủ quốc gia kiêm tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang và được bầu thông qua tuyển cử trực tiếp, nhiệm kỳ 7 năm. Quốc hội gồm 120 ghế được bầu cử trực tiếp, nhiệm kỳ 5 năm.
Sénégal thực hiện chế độ đa đảng: Đảng cầm quyền hiện nay là Đảng Dân chủ Sénégal (Parti Démocratique). Đảng đối lập chính là đảng Xã hội (Parti Socialiste).
Từ đầu những năm 1980, Sénégal phải đối phó với phong trào ly khai ở vùng Casamance do Đảng Phong trào các lực lượng dân chủ Casamance (MFDC) khởi xướng. Từ giữa những năm 1990, phong trào ly khai đã phát triển thành xung đột vũ trang. Chính phủ vẫn làm chủ được tình hình. Từ tháng 1 năm 1999, tiến trình hoà bình đã được đưa ra. Tháng 3 năm 2001, thoả thuận ngừng bắn đã được ký kết giữa Chính phủ và MFDC.
Vào ngày 19 tháng 9 năm 2012, các nhà lập pháp đã bỏ phiếu để loại bỏ Thượng viện để tiết kiệm ước tính 15 triệu đô la.
Tháng 8 năm 2017, đảng cầm quyền đã giành chiến thắng vang dội trong cuộc bầu cử quốc hội. Liên minh cầm quyền của Tổng thống Macky Sall chiếm 125 ghế trong Quốc hội 165 ghế. Năm 2019, tổng thống Macky Sall dễ dàng tái đắc cử ở vòng đầu tiên.
Sénégal là thành viên Liên Hợp Quốc, UA (trước là OUA), Phong trào không liên kết, ICO, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp và hàng chục tổ chức quốc tế và khu vực khác.
Hiện nay, Sénégal theo đuổi đường lối đối ngoại đa dạng hoá, mở cửa nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật. Sénégal quan hệ mật thiết với phương Tây, nhất là Pháp. Pháp là nước viện trợ nhiều nhất cho Sénégal, và hiện vẫn cung cấp chuyên gia kỹ thuật, quân sự cho Sénégal. Hiện nay, Pháp với Hiệp định phòng thủ ký với Sénégal từ khi quốc gia này giành độc lập vẫn luôn có 1.200 quân tại đây. Từ cuối những năm 1980, Mỹ bắt đầu tăng cường quan hệ với Sénégal trong các lĩnh vực kinh tế, đào tạo. Hiện nay, trong khuôn khổ của chương trình " Sáng kiến đối phó với khủng hoảng ở châu Phi của Mỹ"(ACRI-2001), Mỹ đã gửi các chuyên gia quân sự tới giúp Sénégal đào tạo các binh lính gìn giữ hoà bình.
Sénégal chủ trương duy trì quan hệ láng giềng tốt với Mauritanie, Gambia và Guinée - Bissau. Tuy vậy, do xung đột ở vùng Casamance, vấn đề người tỵ nạn Sénégal và các tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết, quan hệ giữa Sénégal và các nước này có lúc căng thẳng.
Vào ngày 22 tháng 2 năm 2011, Senegal cắt đứt quan hệ ngoại giao với Iran, nói rằng họ cung cấp vũ khí cho phiến quân đã giết chết quân đội Senegal trong cuộc xung đột Casamance.
Sénégal được chia thành 14 vùng,[6] mỗi vùng được quản lý bởi Conseil Régional (Hội đồng khu vực). 14 vùng lại được chia thành 45 Départements, 113 Arrondissements và Collectivités Locales.[7]
Các vùng gồm:
Sénégal nằm ở phía tây lục địa châu Phi. Nó nằm giữa vĩ tuyến 12° và 17° Bắc, kinh độ 11° và 18° Tây.
Sénégal giáp với Đại Tây Dương về phía tây, Mauritanie về phía bắc, Mali đề phía đông, Guinée về phía đông nam, Guiné-Bissau về phía tây nam, và gần như vây quanh Gambia (trừ một đường biển ngắn của nước này).
Khung cảnh tai Sénégal chủ yếu gồm những đồng bằng cát tây Sahel nâng cao lên thành những dãy đồi ở phía đông nam. Tại đây có điểm cao nhất Sénégal, cách Nepen Diakha 2,8 km, cao 638 m (2.093 ft).[8] Biên giới phía bắc được tạo nên từ sông Sénégal; những con sống khác gồm sông Gambia và sông Casamance. Thủ đô Dakar nằm trên bán đảo Cap-Vert, điểm cực tây của châu Phi.
Tháng 1 năm 1994, Sénégal đã tiến hành một cuộc cải cách kinh tế sâu rộng và đầy tham vọng với sự hỗ trợ của cộng đồng các nước cho vay quốc tế. Cuộc cải cách bắt đầu với việc phá giá 50% đồng tiền tệ Sénégal, đồng franc CFA, vốn có tỷ giá cố định so với đồng franc cũ của Pháp và hiện nay là đồng euro. Sự kiểm soát và hỗ trợ giá cả của chính phủ dần được bãi bỏ. Sau khi kinh tế giảm sút 2.1% năm 1993, Sénégal đã có một bước chuyển quan trọng, nhờ chương trình cải cách đó, với tăng trưởng GDP thực tế hàng năm ở mức 5% trong giai đoạn 1995-2001. Lạm phát hàng năm từng chưa tới 1%, nhưng đã tăng tới ước tính 3.3% năm 2001. Đầu tư tăng trưởng vững chắc từ mức 13.8% GDP năm 1993 tới 16.5% năm 1997.
Với tư cách một thành viên của Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Tây Phi (WAEMU), Sénégal hiện đang nỗ lực hội nhập sâu hơn nữa vào khu vực với một mức thuế quan thống nhất. Sénégal cũng đã thực hiện kết nối Internet toàn bộ năm 1996, tạo ra một cuộc bùng nổ các dịch vụ dựa trên công nghệ thông tin nhỏ. Hoạt động tư nhân hiện chiếm 82% GDP. Những hậu quả tiêu cực là việc Sénégal phải đối mặt với những vấn đề kinh niên của đô thị như thất nghiệp, bất bình đẳng kinh tế xã hội, thanh thiếu niên phạm tội, và nghiện ma tuý—tương tự như vấn đề sinh ra từ các tầng lớp xã hội khác nhau tại vùng đô thị các nước phát triển/công nghiệp.
Sénégal có dân số hơn 13,5 triệu,[9] trong đó 42% sống tại khu vực nông thôn. Mật độ dân cư dao động từ 77 người trên kilômét vuông (200/sq mi) ở miền trung-tây tới 2 trên kilômét vuông (5,2/sq mi) ở khu vực miền đông khô cằn.
Sénégal có sự đa dạng về dân tộc, và như đa số các quốc gia Tây Phi, nhiều ngôn ngữ được sử dụng hàng ngày. Người Wolof là dân tộc đông nhất Sénégal (43% dân số); người Fula[10] và người Toucouleur (cũng gọi là Halpulaar'en, nghĩa là "người nói tiếng Pulaar") (24%) là nhóm đông thứ nhì, theo sau bởi người Serer (14,7%),[11] rồi người Jola (4%), người Mandinka (3%), người Moor (Naarkajors), người Soninke, người Bassari và nhiều nhóm nhỏ khác (9%).
Khoảng 50.000 người châu Âu (chủ yếu người Pháp) và người Liban[12] cư ngụ ở Sénégal, chủ yếu ở các thành phố. Đa số người Liban làm công việc thương mại.[13] Ngoài ra tại các đô thị, có những cộng đồng người Việt Nam và người Trung Quốc nhỏ, mỗi nhóm khoảng vài trăm người.[14][15] Cũng có hàng chục nghìn người di cư từ Mauritanie, chủ yếu ở miền bắc.[16]
Tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức. Đa số người dân cũng nói ngôn ngữ dân tộc mình và, đặc biệt tại Dakar, tiếng Wolof là lingua franca.[17] Tiếng Pulaar (Fula) là ngôn ngữ của người Fula và Toucouleur. Tiếng Serer được nói rộng rãi bởi cả người Serer và phia Serer. Nhóm ngôn ngữ Jola phổ biến rộng rãi tại Casamance.
Nhiều ngôn ngữ được hưởng tình trạng "ngôn ngữ quốc gia": tiếng Balanta-Ganja, tiếng Ả Rập Hassaniya, tiếng Jola-Fonyi, tiếng Mandinka, tiếng Mandjak, tiếng Mankanya, tiếng Noon (Serer-Noon), tiếng Pulaar, tiếng Serer, tiếng Soninke, và tiếng Wolof.
Thủ đô Dakar là thành phố lớn nhất Sénégal, với hơn hai triệu dân.[18]
Hồi giáo là tôn giáo chính ở nước này với khoảng 94% dân số là tín đồ; cộng đồng Thiên chúa giáo chiếm 4% dân số gồm Công giáo La Mã, và các phái Tin lành.
|url=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)
Từ điển từ Wiktionary | |
Tập tin phương tiện từ Commons | |
Tin tức từ Wikinews | |
Danh ngôn từ Wikiquote | |
Văn kiện từ Wikisource | |
Tủ sách giáo khoa từ Wikibooks | |
Tài nguyên học tập từ Wikiversity |
Chính phủ
Tin tức
Tổng quan
Bản đồ
Âm nhạc
Du lịch
Khác
Dân tộc
MFDC