Đầu cá (Fish head) là một cấu trúc giải phẫu cá chỉ về phần đầu của các loài cá. Đầu cá, tách rời hoặc vẫn còn dính với phần còn lại của cá, đôi khi được dùng trong các món ăn, hoặc luộc để kho cá. Đầu của cá bao gồm mõm, từ mắt đến điểm gần hết của hàm trên, nắp mang hoặc mang (không có ở cá mập và cá không hàm), và má cá, kéo dài từ mắt đến xương trước. Hộp sọ ở các loài cá được hình thành từ một loạt các xương chỉ được kết nối lỏng lẻo. Hàm cá được gắn dưới cằm. Các cơ quan ở phần đầu cá thường nằm sát 2 bên hoặc ẩn sâu vào xương đầu có thể kể như miệng, râu, mũi, mắt, mang và các bộ phận khác.
Miệng cá: Là cơ quan bắt mồi quan trọng của cá. Dựa vào vị trí và kích thước của miệng có thể dự đoán tập tính ăn của cá.
Vị trí miệng cá:
Miệng trên: Chiều dài xương hàm trên nhỏ hơn chiều dài của xương hàm dưới. Cá có dạng miệng này thường bắt mồi ở tầng mặt như cá mè trắng, cá mè hoa, cá thiểu, cá trích.
Miệng giữa: Chiều dài xương hàm trên và chiều dài của xương hàm dưới tương đương nhau. Cá có dạng miệng này thường bất mồi ở tầng giữa nhưng, cá cũng có thể bắt mồi ở tầng mặt và tầng đáy.
Miệng dưới: Chiều dài xương hàm trên lớn hơn chiều dài của xương hàm dưới. Cá có dạng miệng này thường bất mồi ở đáy như cá trôi, cá trê, cá hú, cá ngát.
Cá miệng tròn: Răng to, bén, phân bố ở quanh miệng, lưỡi và hầu.
Cá sụn: Hình dạng và kích cõ răng khác nhau tuỳ theo tính ăn của từng loài cá.
Cá ăn động vật kích thước nhỏ: Răng nhỏ, tà, phân bố ở xoang miệng.
Cá ăn động vật kích thước lớn: Răng to, bén, phân bố chủ yếu ở hai hàm. Cá có miệng rộng, răng hàm bén và có răng chó (răng nanh)
Cá xương: Răng thường phân bố ở xoang miệng hầu (hai hàm, vòm miệng, hầu). Hình dạng và kích thước của răng khác nhau tuỳ theo tính ăn của từng loài cá.
Cá miệng tròn chỉ có một đôi lỗ mũi. Cá sụn và cá xương thường có hai đôi lỗ mũi nằm hai bên đầu của cá. Đôi lỗ mũi trước thường thông với đôi lỗ mũi sau.
Số lượng và chiều dài của râu khác nhau tùy loài cá. Các loài cá sống và kiếm ăn tầng đáy thường có râu phát triển (cả về số lượng lẫn chiều dài). Cá thường cá có bốn đôi râu và được gọi tên theo vị trí của chúng như sau:
Râu mũi: Một đôi nằm kề bên đôi lỗ mũi trước.
Râu mép: Một đôi nằm hai bên mép. Đây là đôi râu dài nhất.
Cá miệng tròn: Có 7-14 đôi lỗ mang hình tròn hoặc bầu dục nằm hai bên đầu. Các lỗ mang không có nắp mang.
Cá sụn: Có 5-7 đôi khe mang nằm ở mặt bụng hoặc hai bên đầu cá tùy theo loài. Ở cá sụn các khe mang hẹp, dài và được che chở bởi nắp mang giả do vách ngăn mang kéo dài ra tạo thành.
Cá xương: Có 4-5 đôi khe mang nằm trong khe mang và thông ra ngoài bằng 1 - 2 đôi lỗ mang nằm ở hai bên đầu cá. Ở cá xương các lỗ mang rộng và được che chở bởi hai nắp mang bằng xương.
Lỗ phun nước chỉ có ở cá sụn, nằm ở phía trước các khe mang.
Romer, Alfred Sherwood; Parsons, Thomas S. (1977). The Vertebrate Body. Philadelphia, PA: Holt-Saunders International. pp. 161–177. ISBN 0-03-910284-X.
"Rosh Hashanah and Fish". Smokey Bay Seafood Group. 2020-07-09. Truy cập 2020-07-11.
"How Is Rosh Hashanah Celebrated? - An Overview of Rosh Hashanah's Traditions and Customs". www.chabad.org. Truy cập 2020-07-11.
Subsistence salmon fishing in Nushagak Bay, Southwest Alaska, Jody Seitz, technical paper no. 195, Alaska Department of Fish and Game, Division of Subsistence, Juneau, Alaska, December 1990. Page 68.
Botulism in Alaska, a guide for physicians and healthcare providers Archived 2012-02-06 at the Wayback Machine, 2005 update, State of Alaska, Department of Health & Social Services, Division of Public Health, Section of Epidemiology.
Wong, Ethan (2016-12-30). "Fish Head Soup - Malaysia Fish Head Noodle Soup Recipe". 3thanWong. Truy cập 2020-07-24.