Đoàn Đức Thái (1944 - 14/12/1974) liệt sĩ, anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, người ôm bộc phá phá hàng rào dây thép gai trong kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam.[1][2]
Ông sinh năm 1944 trong một gia đình nghèo ở thôn Hòa Hy, xã Hòa Quang (nay là thị trấn Cát Hải), huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống với anh trai là Đoàn Đức Đại tại xã Dư Hàng Kênh (huyện An Hải) và học Trường THPT Thái Phiên[3]. Năm 1967, ông tình nguyện tham gia lực lượng thanh niên xung phong phục vụ chiến trường Khu 4. Tháng 12/1971, ông nhập ngũ và đến năm 1972 được điều đến chi viện cho chiến trường B, thời gian này ông tham gia nhiều trận đánh trên chiến trường Miền Đông Nam bộ.
Trước trận đánh Chi khu quân sự Bù Đăng vào đêm 13/12/1974, lúc ông đang rốt rét, thủ trưởng đơn vị không đồng ý để ông tham gia trận đánh. Song ông viết đơn xung phong tham gia cùng với 4 đồng đội của mình và được cấp trên giao nhiệm vụ tổ trưởng tổ bộc phá.
Hành trình tiến công có địa hình trống trải, sườn đồi dốc, hoả lực của địch rất ác liệt, ông cùng đồng đội thay nhau đặt bộc phá, liên tiếp các lớp hàng rào của địch bị phá tung. Đến tầng hàng rào cuối cùng, đã 2 lần đặt xong bộc phá, nhưng vì độ dốc quá lớn, móc bộc phá bị tụt, rơi xuống. Trước tình thế hết sức khẩn trương đó ông đã ôm bộc phá xông lên, bám vào hàng rào, tìm cách khắc phục, đặt được bộc phá, giật nụ xòe và định lui về vị trí thì bộc phá trượt khỏi hàng rào lăn xuống sườn dốc về phía đồng đội. Là quả bộc phá cuối cùng và có nguy cơ gây thương vong lớn cho đồng đội, Đoàn Đức Thái đã ôm quả bộc phá đang xòe lửa, lao ngược lên đồi dốc và dùng thân mình giữ chặt quả bộc phá vào tầng hàng rào cuối cùng và hô vang "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh! Xung phong! Xung phong!". Bộc phá nổ, hàng rào cuối cùng bật tung, ông hy sinh vào rạng sáng ngày 14/12/1974.
Sau khi hàng rào được mở, đồng đội của anh đã tiến lên tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch. Chiến thắng này tạo thế mở rộng vùng giải phóng dọc quốc lộ 13, tạo bàn đạp quan trọng cho chiến dịch Hồ Chí Minh tiến về giải phóng Sài Gòn năm 1975.
"Trong nhân dân ta, ngoài việc thờ phụng, cúng bái tổ tiên, bà con còn ngưỡng mộ thờ cúng các bậc danh thần, dũng tướng, các anh hùng liệt sĩ nêu gương liệt oanh xuất chúng như Đoàn Đức Thái, điều đó cũng đúng với đạo lý "Uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa" của dân tộc Việt Nam ta" (đồng chí Sáu Phong, tức Nguyễn Minh Triết, nguyên Chủ tịch nước, thời kháng chiến chống Mỹ là lãnh đạo cơ quan Trung ương Đoàn ở chiến trường B2).