Bệnh nhân cách

Theo truyền thống, psychopathy (tạm dịch: biến thái nhân cách, biến thái tâm lý, biến thái tinh thần) là một rối loạn nhân cách được đặc trưng vi các hành vi chống đối xã hội dai dẳng, thiếu sự đồng cảmsự hối hận, và những đặc điểm táo bạo, không sợ hãi và tự cao tự đại.[1][2][3] Nó đôi khi được coi là đồng nghĩa với sociopathy. Các quan niệm khác nhau về bệnh nhân cách đã được sử dụng trong suốt lịch sử chỉ chồng chéo một phần và đôi khi còn có thể trái ngược nhau.[4]

Tiếng Trung dịch là: tinh thần/tâm lý bệnh thái (tình trạng bệnh về tinh thần/tâm lý), cũng có trang dịch là tinh thần/tâm lý biến thái. Ở đây nên chọn từ hợp tiếng Việt là bệnh biến thái nhân cách/ biến thái tâm lý.

Từ nguyên: gốc Hy Lạp psyche (ψυχή) "soul" và pathos (πάθος) "suffering, feeling". Nghĩa đen tạm dịch là: trải nghiệm, cảm thấy linh hồn. Có lẽ là ý muốn nói kẻ bệnh thích trải nghiệm cảm giác đau đớn, đau khổ, v.v. của nạn nhân nhằm thoả mãn thú tính.

Hervey M. Cleckley, một bác sĩ tâm thần người Mỹ, cũng như nhà tâm lý học người Mỹ George E. Partridge đã ảnh hưởng đến các tiêu chuẩn chẩn đoán ban đầu về phản ứng / rối loạn nhân cách chống đối xã hội trong Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn tâm thần (DSM).[5] DSM và phân loại quốc tế về bệnh (ICD) sau đó giới thiệu các chẩn đoán của rối loạn nhân cách chống đối xã hội (ASPD) và rối loạn nhân cách phân ly (DPD) tương ứng, trong đó nêu rằng những chẩn đoán đã được đề cập đến (hoặc bao gồm những gì được gọi) như bệnh nhân cách hoặc sociopathy. Việc tạo ra ASPD và DPD được thúc đẩy bởi thực tế là nhiều đặc điểm kinh điển của bệnh thái nhân cách không thể đo lường một cách khách quan.[4][6][7][8] Nhà tâm lý học người Canada Robert D. Hare sau đó đã phổ biến lại cấu trúc của bệnh lý tâm thần trong tội phạm học với Danh sách kiểm tra bệnh lý tâm lý của mình.[9][10]

Mặc dù không có tổ chức tâm thần hoặc tâm lý nào đã xử phạt một chẩn đoán có tên "bệnh tâm thần", các đánh giá về đặc điểm tâm thần được sử dụng rộng rãi trong môi trường tư pháp hình sự ở một số quốc gia và có thể có hậu quả quan trọng đối với cá nhân. Nghiên cứu về bệnh thái nhân cách là một lĩnh vực nghiên cứu tích cực, và thuật ngữ này cũng được sử dụng bởi công chúng, báo chí phổ biến và trong các miêu tả hư cấu.[10][11] Mặc dù thuật ngữ này thường được sử dụng phổ biến cùng với "điên" và "bệnh tâm thần", có một sự khác biệt về phân loại giữa rối loạn tâm thần và bệnh nhân cách.[12]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Patrick, Christopher; Fowles, Don; Krueger, Robert (tháng 8 năm 2009). “Triarchic conceptualization of psychopathy: Developmental origins of disinhibition, boldness, and meanness”. Development and Psychopathology. Cambridge, England: Cambridge University Press. 21 (3): 913–938. doi:10.1017/S0954579409000492. PMID 19583890.
  2. ^ Hare, Robert D. (1999). Without Conscience: The Disturbing World of the Psychopaths Among Us. New York: Guilford Press.
  3. ^ Michael H. Stone & Gary Brucato. The New Evil: Understanding the Emergence of Modern Violent Crime (Amherst, New York: Prometheus Books, 2019), pp. 48-52.
  4. ^ a b Skeem, Jennifer L.; Polaschek, Devon L.L.; Patrick, Christopher J.; Lilienfeld, Scott O. (ngày 15 tháng 12 năm 2011). “Psychopathic Personality: Bridging the Gap Between Scientific Evidence and Public Policy”. Psychological Science in the Public Interest. Thousand Oaks, California: SAGE Publications. 12 (3): 95–162. doi:10.1177/1529100611426706. PMID 26167886. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2016.
  5. ^ Partridge, George E. (tháng 7 năm 1930). “Current Conceptions of Psychopathic Personality”. The American Journal of Psychiatry. Philadelphia, Pennsylvania: American Psychiatric Association. 1 (87): 53–99. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2020.
  6. ^ Semple, David (2005). The Oxford Handbook of Psychiatry. Oxford, England: Oxford University Press. tr. 448–9. ISBN 978-0-19-852783-1.
  7. ^ Hare, Robert D. (ngày 1 tháng 2 năm 1996). “Psychopathy and Antisocial Personality Disorder: A Case of Diagnostic Confusion”. Psychiatric Times. New York City: MJH Associates. 13 (2). Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 5 năm 2013.
  8. ^ Hare, Robert D.; Hart, Stephen D.; Harpur, Timothy J. (1991). “Psychopathy and the DSM-IV criteria for antisocial personality disorder”. Journal of Abnormal Psychology. 100 (3): 391–8. doi:10.1037/0021-843X.100.3.391. PMID 1918618.
  9. ^ Andrade, Joel (23 tháng 3 năm 2009). Handbook of Violence Risk Assessment and Treatment: New Approaches for Mental Health Professionals. New York, NY: Springer Publishing Company. ISBN 978-0-8261-9904-1. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2014.
  10. ^ a b “Hare Psychopathy Checklist”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2013.
  11. ^ Delisi, Matt; Vaughn, Michael G.; Beaver, Kevin M.; Wright, John Paul (2009). “The Hannibal Lecter Myth: Psychopathy and Verbal Intelligence in the MacArthur Violence Risk Assessment Study”. Journal of Psychopathology and Behavioral Assessment. New York City: Springer Science+Business Media. 32 (2): 169–77. doi:10.1007/s10862-009-9147-z.
  12. ^ Hare, Robert D. (1999). Without Conscience: The Disturbing World of the Psychopaths Among Us. New York City: Guilford Press. tr. 22. ISBN 978-1-57230-451-2.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhân vật Suzune Horikita - Classroom of the Elite
Nhân vật Suzune Horikita - Classroom of the Elite
Nếu mình không thể làm gì, thì cứ đà này mình sẽ kéo cả lớp D liên lụy mất... Những kẻ mà mình xem là không cùng đẳng cấp và vô giá trị... Đến khi có chuyện thì mình không chỉ vô dụng mà lại còn dùng bạo lực ra giải quyết. Thật là ngớ ngẩn...
Nhân vật Aoi Todo trong Jujutsu Kaisen
Nhân vật Aoi Todo trong Jujutsu Kaisen
Aoi Todo là một thanh niên cao lớn, có chiều cao tương đương với Satoru Gojo. Anh ta có thân hình vạm vỡ, vạm vỡ và làn da tương đối rám nắng
Tribe: Primitive Builder - Xây dựng bộ tộc nguyên thủy của riêng bạn
Tribe: Primitive Builder - Xây dựng bộ tộc nguyên thủy của riêng bạn
Tribe: Primitive Builder là một trò chơi mô phỏng xây dựng kết hợp sinh tồn. Trò chơi lấy bối cảnh thời kỳ nguyên thủy
[Review sách] Đứa con đi hoang trở về: Khi tự do chỉ là lối thoát trong tâm tưởng
[Review sách] Đứa con đi hoang trở về: Khi tự do chỉ là lối thoát trong tâm tưởng
Có bao giờ cậu tự hỏi, vì sao con người ta cứ đâm đầu làm một việc, bất chấp những lời cảnh báo, những tấm gương thất bại trước đó?