Babymetal

Babymetal
Thông tin nghệ sĩ
Nguyên quánTokyo, Nhật Bản
Thể loại
Năm hoạt động2010–nay
Hãng đĩa
Hợp tác với
Thành viên
Cựu thành viên
Websitebabymetal.com

Babymetal (Nhật: ベビーメタル Hepburn: Bebīmetaru?) (tất cả viết cách điệu in hoa) là một ban nhạc heavy metal người Nhật Bản. Đội hình ban nhạc gồm có Nakamoto Suzuka nghệ danh "Su-metal", Kikuchi Moa nghệ danh "Moametal" và Okazaki Momoko nghệ danh "Momometal". Nhà sản xuất của nhóm là Kobametal từ công ty quản lý tài năng Amuse. Giọng hát của họ được đệm bởi phần hòa tấu heavy metal, do một nhóm các nhạc công phòng thu (có tên gọi "Kami Band") thể hiện tại các buổi trình diễn.

Ban nhạc được thành lập vào năm 2010, với đội hình đời đầu gồm Su-metal (hát và nhảy), Moametal (gào và nhảy) và Mizuno Yui vai "Yuimetal" (gào và nhảy), với ý tưởng tạo ra sự pha trộn giữa thể loại nhạc heavy metalthần tượng Nhật Bản. Khởi đầu là một tiểu đơn vị của nhóm nhạc thần tượng Nhật Bản Sakura Gakuin, Babymetal dần hoạt động độc lập vào năm 2013, sau khi Nakamoto chia tay Sakura Gakuin. Babymetal đã phát hành album đầu tay cùng tên nhóm vào tháng 2 năm 2014. Album thứ hai Metal Resistance của họ được phát hành toàn thế giới vào tháng 4 năm 2016. Babymetal còn khởi động nhiều chuyến lưu diễn, phần lớn trong số đó diễn ra ở ngoài châu Á.

Ngày 19 tháng 10 năm 2018, Babymetal thông báo Mizuno Yui đã quyết định rời ban nhạc do sức khỏe yếu, sau khi cô vắng mặt trong các buổi trình diễn nhạc sống từ tháng 12 năm 2017.[1] Sau khi chia tay Yui, ban nhạc đã biểu diễn cùng các vũ công dự bị tại các buổi trình diễn nhạc sống. Một trong các vũ công ấy là Okazaki Momoko (cựu thành viên của Sakura Gakuin) đã gia nhập Babymetal với tư cách thành viên chính thứ ba vào tháng 4 năm 2023, dưới nghệ danh Momometal.

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

2010–2012: Khởi đầu

[sửa | sửa mã nguồn]

Kobametal (nhà sản xuất của ban nhạc và người đam mê nhạc heavy metal lâu năm) bắt đầu nhen nhóm kế hoạch cho ra đời một nhóm kết hợp heavy metal/thần tượng vào năm 2009 sau khi ông ấn tượng với màn biểu diễn của Nakamoto Suzuka với nhóm nhạc cũ Karen Girl's của cô, thấy rằng cô bé là lựa chọn phù hợp ở vị trí hát chính cho nhóm nhạc mới.[2] Ban nhạc được thành lập vào năm 2010 ở Tokyo, Nhật Bản,[3] dưới dạng câu lạc bộ nhạc heavy [metal] (重音部 Jūonbu?),[4] hay tiểu đơn vị của nhóm nhạc nữ thần tượng Sakura Gakuin (cũng mới được thành lập cùng năm đó).[5] Tên của ban nhạc là sự kết hợp giữa "baby" (ベビー bebī?) và "heavy metal" (ヘビーメタル hebī metaru?), cách phát âm cái tên bằng tiếng Nhật lại vần với từ "heavy metal".[6] Theo Kobametal, Mizuno Yui và Kikuchi Moa là những nhân tố bổ sung để tạo nên "sự hiện diện độc đáo trên sân khấu" của Nakamoto với hai cô bé có vóc người nhỏ hơn, nhảy quanh cô "giống như những thiên thần".[2] Không ai trong số ba thành viên quen nghe nhạc metal trước khi ban nhạc ra đời.[7]

Babymetal lần đầu trình diễn trực tiếp vào ngày 28 tháng 11 năm 2010 (2010-11-28), tại buổi hòa nhạc solo đầu tiên của Sakura Gakuin mang tên Sakura Gakuin Festival ☆ 2010.[8][9] Tháng 7 năm 2011, Babymetal cho ra mắt ca khúc "Ijime, Dame, Zettai" ("Không còn bắt nạt nữa") tại một buổi hòa nhạc của Sakura Gakuin, nhưng bài hát chỉ được thể hiện trong các buổi hòa nhạc sống lúc bấy giờ.[10] Đĩa đơn đầu tiên của ban nhạc là "Doki Doki Morning" lúc đầu xuất hiện trong album đầu tay Sakura Gakuin 2010 Nendo: Message của Sakura Gakuin, phát hành vào 27 tháng 4 năm 2011 (2011-04-27). Một MV của ca khúc được đăng tải lên kênh Youtube của Toy's Factory vào ngày 12 tháng 10 năm 2011, và trình làng dưới dạng đĩa đơn DVD vào cuối năm 2011 bởi hãng đĩa chi nhánh độc lập Juonbu Records của Toy's Factory.[11] MV đã vượt mốc 1 triệu lượt xem tính đến cuối năm 2012.[12][13]

Đĩa đơn CD đầu tiên của Babymetal là một thành phẩm hợp tác với ban nhạc Kiba of Akiba, có tên "Babymetal / Kiba of Akiba". Được Juonbu Records phát hành vào năm 2012,[11] đĩa đơn giành vị trí thứ 3 trên bảng xếp hạng indie hàng tuần của Oricon, và vị trí số một trên bảng xếp hạng indie hàng tuần của Tower Records Shibuya.[14] Mùa hè năm 2012, ban nhạc trình làng MV cho đĩa đơn kế tiếp là "Headbangeeeeerrrrr!!!!!",[14] do Tanabe Hidenobu làm đạo diễn.[15][16] Tháng 8 năm 2012, Babymetal ra mắt tại Nhạc hội Summer Sonic Festival của Nhật,[13][17] trở thành nghệ sĩ nhỏ tuổi nhất từ trước đến nay trình diễn tại nhạc hội, với độ tuổi trung bình là 12.[18] Cùng năm ấy, Babymetal trình diễn bên ngoài nước Nhật lần đầu tiên tại Nhạc hội Anime Festival Asia 2012 ở Singapore.

2013–2015: Ra mắt hãng đĩa lớn và Babymetal

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 9 tháng 1 năm 2013, ban nhạc có màn ra mắt hãng đĩa lớn với "Ijime, Dame, Zettai". Được phát hành dưới hãng đĩa chính của Toy's Factory và Juonbu Records,[19] đĩa đơn đã bán ra 19.000 bản trong tuần đầu tiên và ra mắt ở vị trí số 6 trên bảng xếp hạng Oricon Singles Chart.[20] Mùa hè năm 2013, Nakamoto tốt nghiệp sơ trung và do đó cũng "tốt nghiệp" luôn ở Sakura Gakuin (một nhóm gồm các bé gái tiểu học và sơ trung). Tuy nhiên, quản lý của nhóm quyết định rằng Babymetal sẽ không giải tán và tiếp tục hoạt động với hình thức một ban nhạc.[21] Nhóm phát hành đĩa đơn kế tiếp là "Megitsune" vào ngày 19 tháng 6 năm 2013,[22] dưới quyền phân phối của Toy's Factory và BMD Fox Records (hãng đĩa chinh nhánh mới của ban nhạc).[23]

Ngày 10 và 11 tháng 8 năm 2013, Babymetal một lần nữa tham dự nhạc hội Summer Sonic Festival, trình diễn tại Tokyo và Osaka.[24] Sau đó vào tháng 10, Babymetal cũng trở thành những nghệ sĩ nhỏ tuổi nhất từ trước đến nay từng biểu diễn ở liên hoan nhạc heavy metal Loud Park.[18] Vào tháng 11, Babymetal phát hành video quảng bá cho bộ phim Through the Never của Metallica trình chiếu ở Nhật,[25][26] và phát hành MV nhạc sống đầu tiên của nhóm là Live: Legend I, D, Z Apocalypse, ra mắt ở vị trí số 7 trên bảng xếp hạng đĩa Blu-ray hàng tuần của Oricon, và vị trí số hai trong số các đĩa Blu-ray ca nhạc.[27] Vào tháng 12 năm ấy, Babymetal trình diễn tại nhạc hội Anime Festival Asia Indonesia 2013[28] và lần thứ hai biểu diễn ở Singapore.

Một tiết mục của Babymetal tại Luân Đôn vào tháng 11 năm 2014. Từ trái qua phải; Moametal, Su-metal và Yuimetal.

Ngày 26 tháng 2 năm 2014, Babymetal phát hành album trùng tên đầu tay. Album có 13 bài và cũng được bày bán với số lượng hạn chế gồm một đĩa DVD, các đoạn video hậu trường và nhạc sống.[29][30] Album nhận được phản hồi tốt từ các nhà phê bình âm nhạc[31] cũng như phía khán giả, tiêu thụ hơn 37.000 bản tại Nhật trong tuần đầu tiên, ra mắt ở vị trí số 4 trên bảng xếp hạng Oricon Weekly Album Chart,[32] và vị trí thứ hai trên Billboard Japan.[33] Nhạc phẩm còn đứng đầu bảng xếp hạng nhạc metal của iTunes tại Đức, Liên hiệp Anh và Mỹ, rồi đạt vị trí số 187 trên bảng xếp hạng Billboard 200 của Mỹ vào ngày 22 tháng 3.[34][35] Album của nhóm còn lọt vào bảng xếp hạng Heatseekers ở vị trí thứ 4.[36] Ngày 1 và 2 tháng 3 năm 2014, ban nhạc có hai buổi hòa nhạc tại Budokan. Với độ tuổi trung bình 14,7, họ trở thành những nghệ sĩ nữ trẻ nhất trình diễn một show tại đây. Hai buổi hòa nhạc có sự tham gia của 20.000 khán giả.[37][38] Ngày 3 tháng 4 năm 2014, một tập chương trình YouTubers React của Fine Brothers đã được đăng trên YouTube nói về ban nhạc cùng các MV của "Doki Doki Morning", "Iine!" và "Gimme Chocolate!!";[39][40] phản ứng của các thành viên trước video được phát hành vào ngày 30 tháng 4 năm 2016.[41]

Cuối buổi hòa nhạc ở Budokan vào ngày 2 tháng 3, Babymetal còn thông báo tour diễn thế giới đầu tiên của họ mang tên Babymetal World Tour 2014, với những đêm diễn đầu tiên ở ParisKöln.[42][43] Sau đó nhạc hội Sonisphere Festival của Anh được điền tên thêm vào tour diễn, nhóm chính thức được mời tham dự sau một chiến dịch do người hâm mộ vận động mang tên "Babymetal For Sonisphere UK 2014",[44] được Sonisphere thừa nhận trên trang chủ sau này.[45] Sau chặng diển ở Liên hiệp Anh, ban nhạc tiếp tục có màn ra mắt ở Mỹ vào ngày 27 tháng 7 với một show diễn chính tại Nhà hát FondaHollywood.[46] Nhóm trình diễn tại Heavy Montréal 2014 ở Canada vào ngày 9 tháng 8 bên cạnh MetallicaSlayerAnthrax; và còn trình diễn tại Summer Sonic 2014 ở Nhật Bản trên sân khấu Mountain cùng những ban nhạc như Avenged SevenfoldMegadeth.[47][48] Babymetal cũng nghệ sĩ có tiết mục khai mạc cho 5 buổi hòa nhạc của Lady Gaga trong tour diễn ArtRave: The Artpop Ball 2014 vào tháng 8 dọc theo miền Tây nước Mỹ.[49][50] Babymetal còn cho phát hành album nhạc sống thứ hai Live: Legend 1999 & 1997 Apocalypse vào ngày 19 tháng 10 năm 2014; trong album có ghi lại những buổi nhạc sống của họ tại NHK HallMakuhari Messe từ năm 2013.[51]

Babymetal tại lễ trao giải Nhân vật của năm (GQ) vào năm 2015 ở Tokyo nhờ chiến thắng Giải đặc biệt cho "Phát hiện của năm".

Tháng 8 năm 2014, ban nhạc được cho sẽ trở lại Anh để diễn một show nữa tại sân O2 Academy Brixton của Luân Đôn vào ngày 8 tháng 11,[52] show cuối năm của nhóm ở châu Âu, nằm trong chặng diễn "Babymetal Apocalypse". Sau đấy ban nhạc cũng trở lại thành phố New York (nơi họ từng ghé thăm trước đó nhưng không trình diễn) để thể hiện các tiết mục tại Hammerstein Ballroom vào ngày 4 tháng 11.[53] Sau buổi diễn ở Brixton, ban nhạc ra mắt ca khúc mới có nhan đề "Road of Resistance."[54] Ca khúc về sau được tiết lộ là sản phẩm hợp tác với Sam TotmanHerman Li của ban nhạc power metal nổi tiếng DragonForce,[54][55] và sau đấy được phát hành dưới dạng đĩa tặng kèm trong album nhạc sống đầu tiên Live at Budokan: Red Night, phát hành cùng lúc với album nhạc sống thứ ba của nhóm là Live at Budokan: Red Night & Black Night Apocalypse vào ngày 7 tháng 1 năm 2015, rồi được phát hành dưới dạng đĩa đơn kĩ thuật số.[56] Sau đấy Li tiết lộ qua Twitter và Facebook rằng anh và Totman đã tiến hành chơi các đoạn guitar của bài hát từ năm 2013. Năm 2015, họ tái phát hành album cùng tên thông qua earMusic và RAL/Sony Music Entertainment.[57] Ngay trước buổi diễn ở lễ trao giải Golden Gods Awards của tạp chí Metal Hammer vào ngày 15 tháng 6, bộ ba bất ngờ xuất hiện trong một đêm diễn của DragonForce tại Download Festival, thể hiện bài "Gimme Chocolate!!", mặc cho nhà tổ chức sự kiện Andy Copping cho biết anh chưa hề liên hệ trước với ban nhạc.[58]

2016–2017: Lưu diễn và Metal Resistance

[sửa | sửa mã nguồn]
Babymetal biểu diễn tại Wembley Arena, 2016.

Trong show diễn chính ở nhà thi đấu Yokohama Arena vào tháng 12 năm 2015, ban nhạc thông báo album phòng thu thứ hai dự kiến phát hành vào ngày 1 tháng 4 năm 2016, cũng như một chuyến lưu diễn toàn thế giới khởi động ở Luân Đôn tại Wembley Arena, và khép lại tại Nhật Bản bằng màn ra mắt ở Tokyo Dome.[59] Ngày 15 tháng 1 năm 2016, tựa album thứ hai được tiết lộ là Metal Resistance.[60]

Album thứ hai thể hiện những điểm khác biệt so với album đầu tay của nhóm. Yuimetal chia sẻ rằng "so với album đầu tiên thì chắc chắn với album thứ hai, họ đã tự thử thách mình ở nhiều thể loại nhạc, thậm chí hơn cả trước kia."[61] Một điểm khác biệt nữa là album có lời ca tích cực hơn. Ban nhạc chú ý tới việc đem lại nhiều phong cách đa dạng để thu hút nhiều khán giả hơn và trình bày toàn bộ bài hát bằng tiếng Anh.[61]

Ban nhạc nghĩ ra tựa album Metal Resistance vì họ tin rằng no đại diện cho họ là ai và làm gì với tư cách Babymetal. Su-metal cho biết: "Tựa nói về những khía cạnh khám phá mới khác mà chúng tôi có thể làm."[61]

Ngày 13 tháng 3, Kobametal (nhà sản xuất của ban nhạc) nhận giải Xuất sắc từ Hiệp hội truyền thông kỹ thuật số (AMD) tại Nhật Bản vì thành công trong việc quảng bá ban nhạc ra thị trường quốc tế.[62] Ngày 2 tháng 4, tức một ngày sau khi trình làng Metal Resistance, Babymetal trở thành nghệ sĩ Nhật đầu tiên diễn chính ở Wembley Arena,[63] với doanh số bán hàng cao nhất dành cho một sự kiện dài một ngày trong lịch sử của tụ điểm,[64] diễn ra trùng với kỷ lục lọt thứ hạng cao nhất đối với một album của nghệ sĩ Nhật trên bảng xếp Liên hiệp Anh.[64] The Guardian chấm màn biểu diễn ở Wembley của họ 5/5 sao.[65] Ngày 5 tháng 4 Babymetal có màn ra mắt truyền hình Mỹ với tiết mục diễn "Gimme Chocolate!!" trên The Late Show with Stephen Colbert.[66] Ngoại hình của Babymetal được thêm vào da nhân vật trong trò chơi điện tử Super Mario Maker của Wii U vào năm 2016.[67]

Ngày 26 tháng 5 năm 2016, Triple H của WWE thông báo trên Twitter rằng ca khúc "Karate" của Babymetal, cùng với "Paranoia" của A Day to Remember sẽ được dùng làm nhạc hiệu chính thức của NXT TakeOver: The End.[68][69] Ngày 18 tháng 7, ban nhạc có màn xuất hiện đặc biệt tại lễ trao giải âm nhạc Alternative Press Music Awards, nơi họ thể hiện bài "Karate" trước khi có thêm giọng ca Rob Halford của Judas Priest cùng lên sân khấu. Halford, cùng với Nakamoto và Kami Band đã biểu diễn ngắn gọn bài "Painkiller", kế đến là màn biểu diễn bài "Breaking the Law" với Mizuno và Kikuchi chơi guitar.[70][71] Ngày 27 tháng 7, độc giả của tạp chí Metal Hammer bầu chọn album đầu tay của Babymetal là album hay nhất thế kỷ 21.[72] Tháng 9 năm 2016, Warner Bros. thông báo một loạt phim hoạt hình-người đóng ngắn tập thuộc thể loại kỳ ảo-phiêu sử có sự tham gia của các thành viên trong ban đang được phát triển. Bộ phim sẽ do Blue Ribbon Content phát triển hợp tác với Amuse Group USA (một chi nhánh của Amuse Inc. tại Mỹ). Kobametal (nhà sản xuất của ban nhạc) cũng tham gia vào khâu sản xuất bộ phim.[73]

Ngày 19 tháng 9 (Red Night) và ngày 20 tháng 9 năm 2016 (Black Night), Babymetal kết thúc tour diễn Babymetal World Tour 2016: Legend Metal Resistance bằng các tiết mục tại Tokyo Dome, cả hai đêm đều bán cháy vé và có khoảng 55.000 khán giả tham dự mỗi đêm. Trong số này có những người hâm mộ từ Nhật Bản và nhiều nơi trên thế giới. Yuimetal thừa nhận rằng cô "vẫn sốc" khi có mặt tại đêm diễn. Moametal cũng thấy vậy, ví đó là "một thách thức khi đứng trên sân khấu ấy đối với những cô gái nhí ở độ tuổi bọn em". Su-metal giải thích rằng "Ở Nhật bọn em biểu diễn tại nhiều tụ điểm giải trí lớn như Budokan và những nơi khác, nhưng Tokyo Dome thì luôn là nơi em luôn mơ được biểu diễn ở đấy."[74] Tháng 9 năm 2016, Babymetal hỗ trợ Red Hot Chili Peppers trong The Getaway World Tour tại Anh. Trong show cuối khép lại tour của mình, tay trống Chad Smith của Red Hot Chili Peppers lên sân khấu cùng Babymetal để thể hiện các bản cover "Painkiller" và "Breaking the Law" của Judas Priest. Sau buổi diễn, Smith cảm ơn Babymetal vì đã đi tour cùng họ và dẫn khán giả hát "Happy Birthday" mừng sinh nhật Su-metal.[75]

Tháng 1 năm 2017, Babymetal hỗ trợ Metallica trong WorldWired Tour của họ tại Gocheok Sky Dome[76] và cũng xuất hiện với vai trò diễn khai mạc của buổi diễn thuộc Not in This Lifetime... Tour của Guns N' Roses ở Nhật. Tháng 4 năm 2017, Babymetal hỗ trợ Red Hot Chili Peppers trong The Getaway World Tour tại Mỹ.[77] Tháng 6 năm 2017, Babymetal biểu diễn tại đêm KISW Pain thuộc sự kiện âm nhạc Grass ở Auburn, Washington.[78] Ở mùa hè năm 2017, họ hỗ trợ Korn trong Serenity of Summer Tour.[79] Sau đó, nhóm tổ chức tour The Five Fox Festival in Japan.[80]

Tháng 9 năm 2017, Babymetal chính thức được tiết lộ là những người thể hiện ca khúc "Unikitty Theme" nhạc hiệu cho bộ phim truyền hình Unikitty!.[81][82] Ngày 2 và 3 tháng 12 năm 2017, Babymetal đã biểu diễn tại nhà thi đấu Hiroshima Green Arena, với các show dán tên quảng bá là Legend "S" Baptism XX.[83] Đây là lần đầu tiên nhóm biểu diễn tại quê hương của Su-Metal là Hiroshima, và đó là một lễ kỷ niệm trưởng thành sớm đối với cô, vì ngày 20 tháng 12 năm 2017 mới là sinh nhật tuổi 20 của cô (như được gợi ý trong tên chương trình), độ tuổi trưởng thành ở Nhật; lời bài hát "Headbangeeeeerrrrr!!!!" (nói về sinh nhật tuổi 15 của một cô gái) thậm chí còn được chỉnh sửa cho phù hợp với dịp này.[84] Đây cũng là buổi biểu diễn đầu tiên của Babymetal mà không đủ ba thành viên do Yuimetal không thể biểu diễn vì bị ốm.[85]

Vào ngày 30 tháng 12 năm 2017, nghệ sĩ guitar Fujioka Mikio của Kami Band rớt từ đài quan sát xuống; anh tử vong vì các vết thương của mình vào ngày 5 tháng 1 năm 2018. Babymetal đã phát hành một bài điếu văn trên Twitter vào ngày 9 tháng 1, tưởng nhớ những đóng góp của anh cho ban nhạc.[86]

2018–2020: Kỷ nguyên The Chosen Seven, chia tay Yuimetal và Metal Galaxy

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 1 tháng 4 năm 2018, Babymetal đăng tải một video lên YouTube có nhan đề đề "Metal Resistance Episode VII – The Revelation".[87] Trong video, một nhân vật giải thích rằng một "mặt tối" của Babymetal có tồn tại, "với bảy linh hồn metal" và rằng một "kỷ nguyên mới sắp bắt đầu". Một graphic novel mang tên Apocrypha: The Legend of Babymetal cũng được công bố trong những ngày tiếp theo. Do "Prophet of the Fox God" (nhà tiên tri của Thần cáo) và minh họa bởi GMB Chomichuk,[88] ấn phẩm được Z2 Comics phát hành vào ngày 30 tháng 10.[89]

Ngày 1 tháng 5 năm 2018, Babymetal thông báo rằng họ sẽ thành lập hãng thu âm của riêng mình, đặt tên là Babymetal Records.[90] Ngày 8 tháng 5, ngay trước thềm Babymetal World Tour 2018, ban nhạc đã phát hành MV cho đĩa đơn mới, "Distortion".[91] Yuimetal đã vắng mặt trong chuyến lưu diễn của Babymetal tại Hoa Kỳ vào tháng 5 năm 2018 mà không có thông báo trước. Giữa những suy đoán của người hâm mộ về tình trạng của Mizuno với nhóm, đại diện của 5B Management (công ty quản lý của Mỹ đại diện cho Babymetal) trả lời câu hỏi từ tạp chí Alternative Press rằng "Yuimetal vẫn là thành viên của ban nhạc, nhưng cô ấy hiện không tham gia tour ở Mỹ." Câu trả lời cũng ẩn ý về "một câu chuyện mới cho tương lai của ban nhạc hiện đang phát triển" và một "cốt truyện" "đã thay đổi."[92]

Yuimetal vắng mặt trong phần còn lại của chuyến lưu diễn, cho đến khi công ty quản lý của họ thông báo tại cuộc họp cổ đông vào tháng 6 rằng sức khỏe của cô ấy không tốt kể từ tháng 12 năm 2017 và "hiện đang hồi phục".[93] Ngày 19 tháng 10 năm 2018, ngay trước thềm chặng diễn tại Nhật Bản, ban nhạc đã phát hành đĩa đơn mới, "Starlight". Cùng ngày hôm ấy, ban nhạc chính thức thông báo Yuimetal rời nhóm.[94] Sau đó, Mizuno phát ngôn giải thích quyết định của mình và mong muốn theo đuổi sự nghiệp solo riêng.[95] Trong chuyến lưu diễn của họ, Babymetal cũng biểu diễn tại Rock on the Range ở Columbus, Ohio,[96] nhạc hội Download festivalDonington Park, Vương quốc Anh,[97] và nhạc hội Rock am Ring và Rock im Park ở Đức.[98][99] Ngày 9 tháng 7 năm 2018, ban nhạc được xưng danh là nhà vô địch của Heavy Metal World Cup 2018.[100]

Ngày 1 tháng 4 năm 2019, Babymetal thông báo rằng họ sẽ phát hành album thứ ba vào cuối năm đó.[101] Ngày 10 tháng 5 năm 2019, ban nhạc phát hành đĩa đơn "Elevator Girl".[102] Ngày 29 tháng 5 năm 2019, có thông báo rằng Babymetal sẽ biểu diễn tại Nhạc hội Glastonbury ở Anh vào ngày 30 tháng 6, biến họ trở thành ban nhạc Nhật Bản đầu tiên biểu diễn trên một trong những sân khấu chính của lễ hội.[103] Babymetal còn tiết lộ kế hoạch cho buổi hòa nhạc đầu tiên của họ tại nhà thi đấu The Forum ở Los Angeles, Hoa Kỳ vào ngày 11 tháng 10 năm 2019.[104][105] Ngày tổ chức buổi hòa nhạc trùng với ngày phát hành album phòng thu thứ ba của họ, Metal Galaxy.[106] Buổi biểu diễn của họ tại The Forum đã được tổng hợp thành một album trực tiếp, Live at the Forum, phát hành ở định dạng DVDBlu-ray vào ngày 13 tháng 5 năm 2020.[107]

Ngày 27 tháng 6 năm 2019, Babymetal phát hành đĩa đơn "Pa Pa Ya!!", hợp tác với rapper người Thái Lan F.Hero [th], trước buổi hòa nhạc của họ tại Yokohama Arena cùng ngày.[108][109] MV được phát hành vào ngày 1 tháng 7, chứa cảnh quay từ buổi hòa nhạc của họ ở Yokohama.[110] MV có mặt của thành viên lưu diễn Fujihira Kano, một trong ba cô gái luân phiên thay thế cho Yui; Fujihira Kano, Sayashi Riho và Okazaki Momoko - bộ ba được gọi là "Avengers".[111][112] Sau tiết mục, họ đã công bố Metal Galaxy Wourld Tour để quảng bá cho album mới của mình, bắt đầu từ tháng 9 năm 2019 và kết thúc vào tháng 3 năm 2020.[113] Một buổi biểu diễn dự kiến tại ClockenflapHồng Kông vào tháng 11 năm 2019 đã bị hủy do các cuộc biểu tình ở Hồng Kông 2019–2020.[114] Các buổi hòa nhạc tiếp theo ở châu Á lúc đầu bị hoãn lại vào ngày 4 tháng 3 do đại dịch COVID-19,[115] nhưng cuối cùng bị hủy bỏ toàn bộ vào tháng 6.[116] Vào tháng 4, họ đã phát trực tuyến hai chương trình "Stay Home, Stay Metal" trên YouTube trong thời gian xảy ra đại dịch, bao gồm các cảnh quay từ hai buổi hòa nhạc trước đó từ năm 2016.[117] Buổi biểu diễn của nhóm tại Makuhari Messe vào tháng 1 năm 2020 đã được tổng hợp thành album trực tiếp Legend – Metal Galaxy, phát hành vào ngày 9 tháng 9.[118]

Tháng 10 năm 2019, ban nhạc đã trở thành nghệ sĩ châu Á đầu tiên đứng đầu bảng xếp hạng Top Rock Albums của Billboard.[119] Năm 2020, Babymetal được giới thiệu với tư cách là nghệ sĩ khách mời trong EP Post Human: Survival Horror của Bring Me the Horizon, cụ thể là trong bài hát "Kingslayer".[120]

Ngày 16 tháng 11 năm 2020, NHK thông báo rằng Babymetal sẽ tham gia chương trình NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 71 vào dịp giao thừa, đánh dấu lần đầu tiên họ xuất hiện trong cuộc thi.[121] Một cuộc thăm dò do Yahoo! Nhật Bản trước khi phát sóng đã xác định rằng bài hát được mong đợi nhất trong đêm là tiết mục "Ijime, Dame, Zettai" của Babymetal, với 26,3% phiếu bầu.[122] Với việc tham gia đội đỏ,[123] họ đã giành chiến thắng với 2.635.200 phiếu so với 1.383.180 phiếu của đội trắng.[124]

2021–nay: The Other One

[sửa | sửa mã nguồn]

Album hồi tưởng đầu tiên của ban nhạc 10 Babymetal Years được phát hành vào ngày 23 tháng 12 năm 2020.[125] Để kỷ niệm 10 năm thành lập ban nhạc, các video trực tiếp của họ đã được phát hành ở định dạng vinyl chỉ có âm thanh vào ngày 25 tháng 8 năm 2021.[126] Vào ngày 11 tháng 10 năm 2021, ban nhạc đã phát hành một video khó hiểu ám chỉ sự gián đoạn hoặc kết thúc của ban nhạc với thông điệp "3 tinh thần kim loại đã tỏa sáng từ năm 2010, ngay cả khi họ rời khỏi Trái đất, sẽ tiếp tục tỏa sáng mãi mãi trong thế giới của chúng ta". trái tim và trên khắp Thiên hà kim loại. Truyền thuyết biến thành thần thoại rồi trở thành Huyền thoại sống... Điều gì ở phía trước phía sau cuối nấc thang để trở thành Huyền thoại sống là điều mà chỉ có Thần Cáo mới biết." [127]

Babymetal công bố album thứ tư sắp tới, The Other One (mà họ tiết lộ là một album chủ đề) vào ngày 11 tháng 10 năm 2022 và sẽ phát hành vào ngày 24 tháng 3 năm 2023.[128] Đĩa đơn chính trong album, "Divine Attack (Shingeki)" (tiếng Nhật: Divine Attack - 神撃 -),[129] được phát hành vào ngày 20 tháng 10 năm 2022. Đây là bài hát đầu tiên của Babymetal mà tất cả phần lời được viết bởi Nakamoto.[130][131] Đĩa đơn thứ hai trong album, "Monochrome", được phát hành vào ngày 17 tháng 11 với một video ca từ, đĩa đơn đầu tiên của ban nhạc.[132] Ngày 19 tháng 1 năm 2023, Babymetal phát hành đĩa đơn "Metal Kingdom", cùng với việc tiết lộ danh sách ca khúc cho The Other One .[133]

Ngày 18 tháng 10 năm 2022, ban nhạc metal Thụy Điển Sabaton thông báo rằng Babymetal sẽ biểu diễn tại các buổi biểu diễn của họ cho chặng châu Âu, nằm trong chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới cùng với ban nhạc Phần Lan Lordi.[134]

Phong cách nghệ thuật

[sửa | sửa mã nguồn]

Phong cách âm nhạc và ca từ

[sửa | sửa mã nguồn]

Hầu hết các thần tượng nhạc pop Nhật Bản thể hiện bầu không khí tươi sáng, nhạc nhẹ, nụ cười và khuôn mặt quyến rũ. Tuy nhiên, Lorraine Plourde nhận định rằng Babymetal làm người ta nhớ đến một phiên bản dễ thương mà hơi đen tối hơn, phức tạp hơn một chút.[135] Ban nhạc xác định phong cách của họ theo một thể loại mới gọi là "kawaii metal" ("kawaii" có nghĩa là "dễ thương") và giải thích rằng đó là "sự pha trộn giữa thần tượng J-pop và heavy metal".[136][137][138] Nhóm cũng được mô tả theo các thể loại alternative metal,[139][140] death metal,[10][137] power metal,[141][142] nu metal[143]speed metal.[144]

Tristan Peterson của Metal Obsession nhận xét trong bài đánh giá của mình về album đầu tay của ban nhạc: "Ban nhạc này được tạo ra cho nhóm nhân khẩu học 'Âm nhạc mà cậu bạn trai/cô bạn gái người Nhật của bạn, những người không thực sự thích Metal, sẽ thích.'" cũng như "[ Babymetal] đã làm cho nhạc metal trở nên dễ thương mà không làm mất đi bất kỳ đặc tính nào của nó."[145]

Patrick St. Michel từ trang âm nhạc và văn hóa Nhật Bản MTV 81 ca ngợi "năng lượng thuần khiết, gây headbang" trong các buổi biểu diễn trực tiếp của nhóm nhạc và mô tả phong cách của họ là sự pha trộn giữa "...âm thanh dường như tạp nham giữa heavy metal và idol pop, tạo ra thứ âm nhạc bấu víu bằng cả những tiếng rít xé cổ họng và những điệp khúc nâng niu." [146]

Các đề tài ca từ trong âm nhạc của Babymetal chú trọng vào các vấn đề trong thế giới thực. Ngoài ra, họ đưa ra thông điệp về sự tích cực và tự khơi dậy bản thân bằng bầu không khí âm nhạc của họ mang các chủ đề vui đùa và ít nghiêm túc hơn.[135] Cụ thể, đấy là mối quan tâm về hình ảnh cơ thể của các cô gái và phụ nữ bị xã hội gây áp lực phải gầy và còn bị bắt nạt, đồng thời họ cũng hát về cảm giác ra sao khi đến buổi hòa nhạc đầu tiên của bạn, khái niệm về "phụ nữ lý tưởng" và sô-cô-la, những chủ đề mà các nhà phê bình phê phán là khác xa so với các phong cách đề tài điển hình mà hầu hết các ban nhạc metal sử dụng.[147]

Trong một phép phân tích về ca từ của Babymetal trong album đầu tay và album thứ hai của họ, BabymetalMetal Resistance, chuyên gia âm nhạc Lewis F. Kennedy bình luận về sự tương phản giữa các đề tài thường dành cho thiếu niên của nhóm và tính thẩm mỹ ác nghiệt của thể loại metal. Anh cũng nhận xét về việc họ thường xuyên sử dụng lối chơi chữ trong album đầu tiên, càng làm tăng tính thiếu nhi trong ca từ. Qua việc sử dụng từ vựng tiếng Anh rộng rãi hơn trong Metal Resistance, Kennedy xem đấy là nỗ lực của ban nhạc nhằm quốc tế hóa các chủ đề trong album của họ để tiếp cận nhiều khán giả hơn. Anh mô tả đường lối phát triển này là làm nhóm trở nên "metal theo hướng truyền thống" hơn, điều mà những người hâm mộ metal sẽ thấy đáng tin hơn. Anh còn cho rằng chủ đề bao quát về phản kháng tập thể của album là nét khác biệt so với tác phẩm trước đó của nhóm và âm nhạc thần tượng theo hướng truyền thống hơn.[148]

Trình diễn trực tiếp và video âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Babymetal và Kami Band biểu diễn tại Rock am Ring năm 2018.

Su-metal là giọng ca chính, được ghi công trên trang web chính thức của Babymetal là giọng hát và nhảy, trong khi Moametal và Yuimetal đều được ghi nhận là tiếng hét và nhảy,[149][150] biểu diễn ở hai bên cạnh cô theo đội hình tam giác. Trong những năm đầu tiên của ban nhạc, các thành viên không nói chuyện trực tiếp với khán giả hay mỉm cười với đám đông,[151] nhưng theo thời gian, ban nhạc đã kết hợp thêm nhiều tương tác hơn với khán giả. Giữa các bài hát, Babymetal không tiếp xúc với đám đông. Thay vào đó, ở những tình huống mất điện hoặc bất khả kháng, họ sẽ ở tư thế đóng băng hoặc quay lưng lại với đám đông. Trang phục của Babymetal vay mượn nhiều từ phong cách gothic và punk Lolita phổ biến của Nhật Bản, với điểm nhấn là màu đỏ và đen.[152][153]

Trong chuyến lưu diễn thế giới năm 2018, do Yuimetal vắng mặt, ban nhạc đã biểu diễn với Moametal và Su-metal trước mặt nhau, sử dụng các bậc thang để chia nhau, trong khi hai vũ công dự bị biểu diễn ở hai bên sân khấu.

Thay vì dùng ký hiệu sừng, ban nhạc sử dụng động tác tay của kitsune để tượng trưng cho nguồn cảm hứng được cho là thiêng liêng của ban nhạc.[149][154] Ban đầu, các thành viên được cho xem những bức ảnh chụp ký hiệu sừng, nhưng lại tưởng nhầm nó là đầu của một con cáo. Thay vì sửa ký hiệu, ban quản lý đã chấp nhận lấy ký hiệu kitsune làm ký hiệu của ban nhạc.[151] Ngoài ra, phong cách moshing Babymetal, được gọi là mosh'sh (モッシュッシュ mosshusshu?) , được mô tả là một trò chơi xô đẩy thân thiện, vui vẻ và an toàn.[155]

Trong các buổi hòa nhạc, Babymetal có một ban nhạc hỗ trợ. Trong giai đoạn đầu của họ, ban nhạc hỗ trợ gồm "Babybones" —một nhóm gồm những cá nhân vô danh mặc trang phục bộ xương sẽ bắt chước các buổi biểu diễn trực tiếp đồng thời các bản ghi nhạc thu âm trước đang được sử dụng.[156][157][158][159] Cuối năm 2012, Babymetal cho ra mắt một ban nhạc sống cho các buổi biểu diễn trực tiếp mà họ gọi là "Full Metal Band" - một nhóm nhạc công mặc áo choàng trắng và sơn xác chết. Kể từ đó, họ được các thành viên và người hâm mộ gọi là "Gods of Metal" và gần đây là "Kami Band". Từ cuối năm 2012 đến đầu năm 2014, hai nhóm sẽ luân phiên hoạt động, trong đó Kami Band được sử dụng nhiều hơn cho các nhạc hội và sự kiện đặc biệt. Tại Babymetal Death Match Tour vào tháng 5 năm 2013, Kami Band lần đầu biểu diễn trực tiếp tất cả phần nhạc.[155] Kể từ đầu năm 2014, ban nhạc Babybones âm thầm giải tán còn Kami Band kể từ đó được xem là ban nhạc hỗ trợ chính của Babymetal. 

Các video âm nhạc của Babymetal thể hiện gu thẩm mỹ hình ảnh khác biệt của họ và giúp ban nhạc thu hút đông đảo khán giả chú ý. MV cho bài "Gimme Chocolate!!" của họ đã thịnh hành vào năm 2014 khi Brian Mansfield của USA Today nhận xét rằng "video trông giống như một loại anime kỳ quái nào đó, với bối cảnh theo phong cách goth đen tối và các thành viên ban nhạc diễn trong trang phục bộ xương, và ba bé gái thực hiện vũ đạo phức tạp, nhấp nháy dấu hiệu trái tim và chuyển động cánh tay hình cối xay gió giống như họ đang vờ chơi guitar".[160]

Nhắc đến MV cho ca khúc "Karate", Moametal chia sẻ rằng cô "rất tự hào khi họ hiện đang đại diện cho thứ văn hóa này đến từ Nhật Bản thông qua âm nhạc của họ và đó là cách để nhiều người bên ngoài Nhật Bản cũng biết tới karate." Lời bài hát nói về việc không bao giờ bỏ cuộc và tiến về phía trước. Yuimetal nói rằng vũ đạo của bài hát đại diện cho ca từ và "điều quan trọng là có thể trình bày những thông điệp mà họ muốn truyền tải qua âm nhạc bằng những bước nhảy của họ."[61] Phần lớn lời bài hát bằng tiếng Nhật và nhóm coi vũ đạo của mình là một cách để phá bỏ rào cản ngôn ngữ.[61]

Hình ảnh công chúng

[sửa | sửa mã nguồn]

Theo Kobayashi "Kobametal" Kei (giám đốc sản xuất của ban nhạc), nhóm được thành lập theo ý tưởng về một loại nhạc metal mới và các thành viên nhận được "thông điệp thiêng liêng" từ Thần Cáo, mặc dù Nakamoto giải thích rằng những thông điệp mà họ nhận được là gián tiếp, vì chúng sẽ được gửi đến Kobametal trước.[161] Ông cho biết việc chấp nhận hay từ chối ý tưởng là tùy thuộc vào quyết định của mọi người. Ngoài ra, ông bác bỏ quan điểm cho rằng ban nhạc là một nghệ sĩ "metal" hoặc "pop", ưa thích câu "Babymetal có một không hai."[162] Kikuchi đùa rằng ba thành viên quyết định tham gia ban nhạc vì đó là định mệnh do Thần Cáo lựa chọn, mục tiêu được cho là để ban nhạc biểu diễn và truyền bá âm nhạc của họ ra khắp thế giới.[163]

Ban nhạc đã đón nhận nhiều luồng ý kiến của khán giả. Một số nhà phê bình ca ngợi ban nhạc là "sáng tạo" và "phá vỡ luật lệ" trong thể loại metal,[164][165] trong khi những người khác gọi ban nhạc là "nhóm độc lạ" (novelty act) và một "màn trình diễn cố làm hài lòng mọi người một cách ngốc nghếch".[166][167] Khi được hỏi về những người không coi âm nhạc pha trộn pop của ban nhạc là "metal", Nakamoto thừa nhận những nhận định ấy và khen những lời cáo buộc đó, cam đoan rằng những yêu nhạc metal thuần túy có gu riêng nhất định đối với metal và xem xét chúng vì sự tiến bộ của ban nhạc.[163]

Lượng người hâm mộ trung thành (được gọi chung là "The One")[161] được Mizuno lưu ý là một nhóm nhân khẩu hỗn hợp ở nhiều độ tuổi khác nhau. Để ý đến những người hâm mộ metal và pop, cô ấy mô tả những "metalhead" trông giống họ, còn những người hâm mộ nhạc pop ăn mặc và cosplay thành họ. Cô nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của khả năng tiếp cận với những người yêu nhạc trẻ hơn đang yêu thích thể loại metal thông qua Babymetal, đồng thời lưu ý rằng bản thân cô còn thiếu kinh nghiệm về metal trước khi gia nhập ban nhạc.[163]

Babymetal được ghi nhận đã tạo ra thể loại kawaii metal ("cute metal" trong tiếng Anh), kết hợp các yếu tố từ J-pop và heavy metal.[168] Thể loại này giới thiệu metal với khán giả mới và nhiều ban nhạc kawaii metal mới như Doll$Boxx và Deadlift Lolita đã thành lập kể từ khi Babymetal ra mắt.[169][170] Trong khi hầu hết các ban nhạc kawaii metal đều trú ở Nhật Bản, thì thể loại này bắt đầu lan rộng ra bên ngoài đất nước đến những nơi như Hàn Quốc, nơi các ban nhạc kawaii metal như Pritz đã ra đời.[171] Ngoài ra, phạm vi ảnh hưởng của Babymetal đã vượt xa khỏi Nhật Bản. Năm 2016, Babymetal trở thành ban nhạc Nhật Bản có thứ hạng cao nhất từ trước đến nay trong lịch sử Official Charts của Vương quốc Anh với việc trình làng album Metal Resistance.[172] Tại Mỹ, Metal Resistance là album tiếng Nhật đầu tiên lọt vào bảng xếp hạng Billboard Top 40 sau hơn 50 năm, đạt vị trí thứ 39 trong tuần đầu tiên.[173] Nghệ sĩ Nhật Bản cuối cùng lọt vào Top 40 là Sakamoto Kyu vào năm 1963.[173] Năm 2019, Babymetal trở thành nghệ sĩ châu Á đầu tiên đứng đầu bảng xếp hạng Billboard Rock Albums với việc phát hành album phòng thu thứ ba Metal Galaxy.[174]

Đón nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhật Bản

[sửa | sửa mã nguồn]

Kayama Yūzō (một nhạc sĩ, diễn viên và nhạc sĩ nổi tiếng ở Nhật Bản) nói về bài hát "Gimme Chocolate!!": "Tôi nghĩ rằng thật khó hát [bài đó], nhưng cao độ của ca khúc thì chuẩn. Nhịp điệu mới mẻ, có một số nét của Nhật Bản, điệu nhảy đổi thì sáng tạo và hoạt bát." [175] Yukawa Reiko (một nhà phê bình âm nhạc nổi tiếng ở Nhật Bản) cho biết: "Babymetal hát và nhảy khá dễ thương, họ có sức hút giống như Himiko và tỏa sáng theo cách mà không ai có thể thay thế được."[176]

Yoshiki (thủ lĩnh nhóm nhạc rock X Japan) nhận xét: "Tôi thực sự thích cái ý tưởng kết hợp giữa những cô bé dễ thương và metal", rồi nói thêm "một ngày nào đó (X Japan có thể diễn với Babymetal)".[177] Tổng biên tập Hirose của Burrn! cho biết ban nhạc "được chào đón ở Anh như một món giải trí hoàn toàn mới từ Nhật Bản bất kể đó có phải là heavy metal hay không."[178][179] Umezawa Naomiyuki của Burrn! thấy rằng Babymetal "trực tiếp đối diện với metal" và "tạo ra những âm thanh cực kỳ tỉ mỉ thu hút người hâm mộ và đòi hỏi sự ngưỡng mộ".[180]

Quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Báo The Daily Dot viết, "đối với những ai trong chúng ta có gu âm nhạc ở mức trung bình, Babymetal giống như một con kỳ lân phát ra âm thanh kỳ diệu, mặc áo khoác da và thở ra lửa."[181] Theo tờ The Guardian của Anh, "Đây là nhạc pop Nhật Bản, được tạo ra ở hậu trường bởi thiên tài xảo quyệt tàn ác nào đó, kẻ gần như chắc chắn có một khoảnh khắc 'Eureka!' đột ngột vào lúc nửa đêm và nhận ra rằng khán giả Nhật Bản nhất định sẽ đón nhận vô điều kiện đống tạp nham dường như phi lý của những ý tưởng âm nhạc tân tiến như vậy."[182]

Nhật báo Los Angeles Times bình luận: "Babymetal là một nhóm nhạc chủ đề Nhật Bản và giờ đây họ là thứ gây chia rẽ nhất trong làng nhạc nặng."[183][184] MetalSucks tuyên bố: "Babymetal không phải là nhạc metal. Đó là diễn kịch, ngành công nghiệp nhạc pop Nhật Bản phá cấu trúc của nhạc pop hiện đại và metal hậu thiên niên kỷ và tái chế chúng thành một trải nghiệm giải trí 360 độ nay đã thành sự thực."[184][185] Sau khi Rob Halford của Judas Priest biểu diễn cùng Babymetal vào tháng 7 năm 2016,[186] anh tuyên bố: "Babymetal là tương lai của nhạc metal."[187]

Thành viên

[sửa | sửa mã nguồn]
Tiết mục của "Kami Band", ban nhạc hỗ trợ Babymetal tại Phòng hòa nhạc Danforth vào ngày 12 tháng 5 năm 2015. Từ trái sang phải: Boh, Fujioka Mikio, Aoyama Hideki và Ohmura Takayoshi

Thành viên chủ chốt

  • Su-metal (Nakamoto Suzuka) – hát chính và vũ công (2010–nay)
  • Moametal (Kikuchi Moa) – hát chính/nền và vũ công (2010–nay)
  • Momometal (Okazaki Momoko) – hát chính/nền và vũ công (2023–nay)

Kami Band

  • Ohmura Takayoshi – guitar (2013[188]–nay)[189]
  • Leda Cygnus – guitar (2013–nay)[190]
  • Fujita Isao – guitar (2015–nay)[191]
  • Boh – bass (2013–nay)[189]
  • Aoyama Hideki – trống (2013[192]–nay)[189]
  • Anthony Barone – trống (2019–nay)
  • Chris Kelly – guitar (2019–nay)
  • CJ Masciantonio – guitar (2019–nay)
  • Clint Tustin – bass (2019–nay)

 

Thành viên cũ

  • Yuimetal (Mizuno Yui) – hát chính/nền và vũ công (2010–2018)
  • Fujioka Mikio – Kami Band; guitar (2013–2018; mất năm 2018)[193]
  • Riho Sayashi – Avengers; vũ công hỗ trợ (2019–2020)[194]
  • Fujihira Kano – Avengers; vũ công hỗ trợ (2019–2020)[195]

Dòng lịch sử hoạt động

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Lưu diễn

[sửa | sửa mã nguồn]

Giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Đề cử cho Giải thưởng Kết quả
2014 Babymetal Giải Âm nhạc châu Âu của MTV 2014 — Giải Wild Card cho Nghệ sĩ Nhật Bản xuất sắc nhất[197] Tiền-đề cử
NEO Awards 2014 — Nghệ sĩ âm nhạc xuất sắc nhất[198] Đoạt giải
2015 Babymetal CD Shop Awards lần thứ 7 — Grand Prix[199][200] Đoạt giải
Babymetal Giải thưởng âm nhạc thường niên của Loudwire lần thứ 4 — Giải Nghệ sĩ mới của năm[201] Đoạt giải
Giải Kerrang! 2015 — Giải Tinh thần độc lập[202] Đoạt giải
Metal Hammer Golden Gods Awards 2015 — Giải đột phá[203] Đoạt giải
Giải Âm nhạc châu Âu của MTV 2015 — Nghệ sĩ Nhật Bản xuất sắc nhất[204] Đề cử
Giải Video âm nhạc của MTV Nhật Bản 2015 — Nghệ sĩ nhạc metal xuất sắc nhất[205] Đoạt giải
Giải Nhân vật của năm 2015 bởi tạp chí GQ, Giải đặc biệt "Phát hiện của năm"[206][207] Đoạt giải
Phụ nữ của năm 2015 bởi Vogue Japan[208] Đoạt giải
NEO Awards 2015 — Nghệ sĩ ấm nhạc xuất sắc nhất[209] Đoạt giải
Giải thưởng âm nhạc thường niên của Loudwire lần thứ 5 — Nhiều người hâm mộ nhiệt tình nhất năm 2015[210] Đoạt giải
Giải thưởng âm nhạc thường niên của Loudwire lần thứ 5 — Nghệ sĩ nhạc sống của năm 2015[211] Đoạt giải
"Road of Resistance" Giải thưởng âm nhạc thường niên của Loudwire lần thứ 5 — Bài hát metal hay nhất năm 2015[212] Đoạt giải
2016 Metal Resistance Loudwire — Tác phẩm được mong chờ nhất tháng 4 năm 2016[213] Đoạt giải
Giải Video âm nhạc của MTV Nhật Bản 2016 — Album hay nhất năm-Nhật Bản[214][215] Đoạt giải
"Karate" Giải Video âm nhạc của MTV Nhật Bản 2016 — Video nhạc metal xuất sắc nhất (Nhật Bản)[214][215] Đoạt giải
Giải Video âm nhạc của MTV Nhật Bản 2016 — Video nhóm nhạc xuất sắc nhất (Nhật Bản)[214] Đề cử
Babymetal Giải Kerrang! 2016 — Ban nhạc diễn trực tiếp xuất sắc nhất[216] Đoạt giải
Metal Hammer Golden Gods Awards 2016 — Ban nhạc quốc tế xuất sắc nhất[217] Đề cử
Giải âm nhạc Alternative Press 2016 — Ban nhạc quốc tế xuất sắc nhất[218] Đề cử
Giải âm nhạc độc lập AIM 2016 — Nghệ sĩ nhạc sống xuất sắc nhất[219] Đoạt giải
Giải âm nhạc Revolver 2016 — Tài năng mới xuất sắc nhất[220] Đề cử
2017 Metal Resistance Giải thưởng âm nhạc thường niên của Loudwire lần thứ 6 — Album nhạc metal hay nhất năm 2016[221] Đoạt giải
Giải thưởng âm nhạc thường niên của Loudwire lần thứ 6 — Bài hát nhạc metal hay nhất năm 2016 - "Karate" (video ca nhạc)[222] Đoạt giải
Babymetal Giải thưởng âm nhạc thường niên của Loudwire lần thứ 6 — Nữ thần nhạc rock của năm 2016 — "Su-metal"[223] Đoạt giải
Giải thưởng âm nhạc thường niên của Loudwire lần thứ 6 — Nghệ sĩ diễn nhạc sống xuất sắc nhất 2016 — "Babymetal"[224] Đoạt giải
Giải thưởng âm nhạc thường niên của Loudwire lần thứ 6 — Nhiều người hâm nhiệt tình nhất năm 2016[225] Đoạt giải
Giải thưởng âm nhạc thường niên của Loudwire lần thứ 7 — Nhiều người hâm mộ nhiệt tình nhất năm 2017[226] Đoạt giải
Giải Âm nhạc châu Âu của MTV 2017 — Nghệ sĩ Nhật Bản xuất sắc nhất[227] Đoạt giải
2020 Metal Galaxy Giải Video âm nhạc của MTV Nhật Bản 2020 — Album hay nhất năm[228] Đoạt giải

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ BABYMETAL issue statement as Yuimetal leaves band and release surprise new track, 28 tháng 10 năm 2019, truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2017
  2. ^ a b 異色メタルアイドル「ベビーメタル」はなぜ人気? "仕掛け人"を直撃! - 日経トレンディネット. Nikkei Trendy Net (bằng tiếng Nhật). 31 tháng 10 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2018.
  3. ^ “Sōryoku tokushū BABYMETAL Metal Resistance Episode IV totsunyū! Member 15000-ji Interview!!”. Kadokawa Direct (bằng tiếng Nhật). Tōkyō: Kadokawa. 4: 76. 2016. ISBN 9784048955812. OCLC 946289587.
  4. ^ “さくら学院 - 部活動紹介 - 重音部 BABYMETAL”. sakuragakuin.jp. Truy cập 28 tháng 11 năm 2017.
  5. ^ “BABYMETAL – Biography – Artist”. Barks.jp. Truy cập 20 tháng 8 năm 2014.
  6. ^ “BABYMETAL”. Hot Wave (Phỏng vấn). Phóng viên Noboru Yamamoto. Saitama Prefecture: Television Saitama. 13 tháng 2 năm 2013.
  7. ^ “BABYMETAL: 'Cutest Headbangers On The Planet'. Razor TV (bằng tiếng Nhật và Anh). Singapore. tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ 26 tháng 3 năm 2014. Truy cập 18 tháng 1 năm 2014.
  8. ^ クラブ活動の秘密情報★☆. Sakura Gakuin's official blog (bằng tiếng Nhật). 26 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2014.
  9. ^ “Sakura Gakuin – Amuse Official Website (Live Events > 2010年11月28日「さくら学院祭☆2010」)” (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2014.
  10. ^ a b Stephens, Alexis. “Are Japan's Death Metal Teenyboppers Babymetal Okay?”. MTV Iggy. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2014.
  11. ^ a b “重音部 BABYMETAL 『BABYMETAL × キバオブアキ』 情報 (2012.02.09)”. Sakura Gakuin's official website (bằng tiếng Nhật). 9 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2014.
  12. ^ “12~13歳女の子の「ヘビメタアイドル」 「さくら学院 BABYMETAL」に世界が大注目” [12 to 13 Year Old Girls World's Hottest "Heavy Metal Idols" – Sakura Gakuin's BABYMETAL]. J-CAST (bằng tiếng Nhật). 16 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  13. ^ a b “BABYMETAL 動画コメント掲載DEATH!!”. HMV Japan (bằng tiếng Nhật). 28 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2014.
  14. ^ a b “女の子3人組のメタルダンスユニット"BABYMETAL"、初の単独シングル発売決定” [Three-girl metal dance unit "BABYMETAL" releases first indie single]. De View (bằng tiếng Nhật). Oricon. 27 tháng 4 năm 2012. Truy cập 18 tháng 4 năm 2013.
  15. ^ Toy's Factory. “BABYMETAL – ヘドバンギャー!![Headbangeeeeerrrrr!!!!!] (Full ver.)”. YouTube. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2021.“BABYMETAL「ヘドバンギャー!!」でSU-METALに神降臨”. Natalie. 21 tháng 6 năm 2012.“スペシャ「MVA」大賞はきゃりー、サカナ、ワンオク”. Natalie. 13 tháng 3 năm 2013.
  16. ^ “BABYMETAL is going to release first solo CD "Headbangeeeeerrrrr!!!!!" on July 4. In this movie you might witness the legendary corset!?”. Kawaii Girl Japan. 27 tháng 6 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2014.
  17. ^ “BABYMETAL サマソニ史上最年少&初出場でロックファンを魅了、海外公演も決定”. Musicman-Net (bằng tiếng Nhật). 20 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2014.
  18. ^ a b “BABYMETAL Live in Singapore 2013”. SOZO Pte Ltd. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2015.
  19. ^ “BABYMETAL”. Toy's Factory (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2016.
  20. ^ “TOP10入りデビューするライブ重視の個性派アイドル~Cheeky Parade、BABYMETAL”. ORICON BiZ online (bằng tiếng Nhật). Oricon. 21 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  21. ^ “The end was the beginning of the new story of BABYMETAL”. Kawaii Girl Japan. 14 tháng 1 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2013.
  22. ^ “BABYMETAL To Release "Megitsune" on 19 June”. Japanverse. 16 tháng 4 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2013.
  23. ^ “BABYMETAL 『メギツネ』”. Tower Records Online (bằng tiếng Nhật). 3 tháng 7 năm 2013. Truy cập 20 tháng 8 năm 2014.
  24. ^ “BABYMETAL : 2度目のサマソニ参戦が決定 今年は大阪にも降臨!” [BABYMETAL announces they will attend Summer Sonic in Osaka for a second time this year]. Mantan-Web (bằng tiếng Nhật). 18 tháng 5 năm 2013.
  25. ^ Lemke, Markus (20 tháng 11 năm 2013). “Metal-Wahnsinn in Japan: Babymetal werben für Metallica”. Metal Hammer.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2014.
  26. ^ “BABYMETAL promotes new Metallica film in Japan”. JRock247 (bằng tiếng Anh). 16 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2019.
  27. ^ “【オリコン】BABYMETAL、初ライブBDがTOP10入り” [【Oricon】 BABYMETAL's first live Blu-ray enters top 10]. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). 27 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2013.
  28. ^ Kapanlagi.com. “Babymetal AFAID 2013”. YouTube. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2021.
  29. ^ “1st Album 「BABYMETAL」発売決定DEATH!!” [1st Album "BABYMETAL" set for release]. BABYMETAL.jp (bằng tiếng Nhật). 24 tháng 1 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2014.
  30. ^ “日本武道館2DAYS決定!!オフィシャルHP先行がスタートDEATH!!12月24日(火)23時59分まで!!”. BABYMETAL.jp (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 12 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2014. Truy cập 31 tháng 1 năm 2014.
  31. ^ Namba, Kazumi (10 tháng 2 năm 2014). “BABYMETAL”. Rolling Stone Japan Edition (March 2014): 103. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2014.
  32. ^ “2014年02月24日〜2014年03月02日のCDアルバム週間ランキング(2014年03月10日付)”. Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2014. Truy cập 14 tháng 5 năm 2014.
  33. ^ “Billboard Japan Top Albums”. Billboard Japan. Truy cập 6 tháng 3 năm 2014.“週間アルバムチャートでうたプリ1位に、武道館実現のBABYMETALも善戦”. Billboard Japan. Truy cập 6 tháng 3 năm 2014.
  34. ^ “The Billboard 200”. Billboard. 13 tháng 3 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2014.
  35. ^ “BABYMETAL to perform at a British rock festival for the first time with the likes of Metallica and Iron Maiden”. Barks. 16 tháng 4 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2014.
  36. ^ “Babymetal to open for Lady Gaga on US Tour”. Loudwire. Truy cập 27 tháng 5 năm 2014.
  37. ^ “[Concert Report] BABYMETAL's Does Legendary Performance at Budokan, Announces Europe Tour”. Barks. 16 tháng 3 năm 2014.
  38. ^ “BABYMETAL、武道館単独公演で史上最年少記録”. Oricon. 3 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2014.
  39. ^ Fine Brothers Entertainment (2 tháng 4 năm 2014). “Youtubers React To Babymetal”. YouTube. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2016.
  40. ^ Fine Brothers Entertainment (4 tháng 4 năm 2014). “Youtubers React To Babymetal (Extras #34)”. YouTube. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2016.
  41. ^ Fine Brothers Entertainment (30 tháng 4 năm 2016). “Babymetal Reacts To Youtubers React To Babymetal”. YouTube. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2016.
  42. ^ Hartmann, Graham (24 tháng 6 năm 2015). “BabyMetal Play 'Wikipedia: Fact or Fiction”. Loudwire. Loudwire.com. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2017.
  43. ^ “Babymetal武道館で第1章完結、海外武者修行の旅へ - 音楽ナタリー”. 音楽ナタリー (bằng tiếng Nhật). 6 tháng 3 năm 2014. Truy cập 1 tháng 3 năm 2018.
  44. ^ “Interview with Japanese "kawaii-metal" pop group BABYMETAL”. Đại sứ quán Nhật Bản tại Liên hiệp Anh (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  45. ^ “UK brace for Babymetal!”. Sonisphere.co.uk (bằng tiếng Anh). 4 tháng 8 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2022.
  46. ^ “BABYMETAL Plays First-Ever U.S. Show At Sold-Out Fonda Theatre In Los Angeles; Video, Photos Available”. BLABBERMOUTH.NET (bằng tiếng Anh). 28 tháng 7 năm 2014. Truy cập 6 tháng 9 năm 2018.
  47. ^ “BABYMETAL » About”. Babymetal's official website. Bản gốc lưu trữ 12 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2014.
  48. ^ Pasbani, Robert (11 tháng 8 năm 2014). “When BABYMETAL Met Unlocking The Truth”. Metal Injection. Truy cập 11 tháng 8 năm 2014.
  49. ^ “BABYMETAL レディー・ガガの米ツアーに大抜擢、LAワンマンも”. Billboard JAPAN (bằng tiếng Nhật).
  50. ^ “Lady Gaga Artrave US Tour 2014: Babymetal Confirmed As Opening Act”. KDramaStars.com. 18 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
  51. ^ Barkan, Jonathan (12 tháng 9 năm 2014). “Babymetal Announce Live DVD/Blu-Ray”. Bloody Disgusting. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2014.
  52. ^ Carter, Emily. “Babymetal bring their world tour to the UK”. Kerrang!. Truy cập 18 tháng 8 năm 2014.
  53. ^ “BABYMETAL Announce NYC & London Shows”. MetalInjection.net. 3 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2014.
  54. ^ a b “Babymetal's New Song 'Road Of Resistance' Featuring DragonForce Members: Audio Preview”. Blabbermouth.net. 5 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2015.
  55. ^ “BABYMETAL "The One" Live NEW SONG In The UK”. MetalInjection.net. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2014.
  56. ^ “BABYMETAL announce "Live at Budokan" DVD/Blu-Ray and Live CD”. Land of Rising Sound. 10 tháng 11 năm 2014. Bản gốc lưu trữ 9 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2015.
  57. ^ “BABYMETAL To Release Self-Titled Debut In UK”. Kerrang!. 13 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2015.
  58. ^ “BABYMETAL crashes the music festival of a promoter who hates them ... cause fuck it”. AsianJunkie. 14 tháng 6 năm 2015. Truy cập 15 tháng 6 năm 2015.
  59. ^ 高橋智樹 (14 tháng 12 năm 2015). “BABYMETAL、宙を舞う! 新曲連打、大発表続々で燃えた横浜アリーナ公演レポート!”. Rockin'On Japan (bằng tiếng Nhật). 株式会社ロッキング・オン. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
  60. ^ “BABYMETAL、新作名は『METALRESISTANCE』 4・1に"お告げ"も”. Oricon Style. 15 tháng 1 năm 2016.
  61. ^ a b c d e “Once Upon a Time, Babymetal's Members Admit They Were 'Afraid' of Metal”. Billboard. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2019.
  62. ^ “第22回 AMD Award 優秀賞|BABYMETAL 一般社団法人デジタルメディア協会”. amd.or.jp (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2018.
  63. ^ Goodman, Eleanor (4 tháng 4 năm 2016). “6 things we learned at Babymetal's Wembley arena show”. teamrock.com.
  64. ^ a b “Babymetal break 2 UK records”. Metal Hammer. 5 tháng 4 năm 2016.
  65. ^ “Babymetal review – J-pop teen metallers come of age”. The Guardian. 3 tháng 4 năm 2016.
  66. ^ “The Late Show with Stephen Colbert Video - BABYMETAL Makes Their U.S. Television Debut”. CBS. CBS Interactive.
  67. ^ Bowar, Chad (27 tháng 4 năm 2016). “Babymetal to Appear in 'Super Mario Maker' Video Game”. Loudwire. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2017.
  68. ^ “BABYMETAL、米プロレス団体WWEの大会テーマソングに採用” [BABYMETAL, adopted as the theme song of WWE rally pro wrestling organization]. hochi.co.jp (bằng tiếng Nhật). 26 tháng 5 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2017.
  69. ^ Triple H [@TripleH] (25 tháng 5 năm 2016). “#NXTTakeOver will feature the kick-ass sound of #NXTLoud artists @WhereisADTR & @BABYMETAL_JAPAN. #WeAreNXTpic” (Tweet). Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2017 – qua Twitter.
  70. ^ Grow, Kory (19 tháng 7 năm 2016). “Watch Rob Halford Cover Judas Priest Classics With Babymetal”. Rolling Stone. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2017.
  71. ^ Hartmann, Graham (19 tháng 7 năm 2016). “Watch Babymetal Perform With Judas Priest's Rob Halford”. Loudwire. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2017.
  72. ^ “Metal Hammer readers vote Babymetal as the best album of the 21st century”. Teamrock.com. 27 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2017.
  73. ^ “Blue Ribbon Content and Amuse Group USA Collaborating on a New Shortform Animated Adventure Series Featuring Japanese Pop-Metal Sensation BABYMETAL”. Warner Bros. 28 tháng 9 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2017.
  74. ^ “In the House of the Fox God”. Kerrang!. Seymour Distribution Ltd: 36–39. 1 tháng 10 năm 2016.
  75. ^ “レッド・ホット・チリ・ペッパーズのチャド、BABYMETALのステージに白装束で飛び入り”. NME Japan (bằng tiếng Nhật). 19 tháng 12 năm 2016.
  76. ^ Hammer, Eleanor Goodman2017-02-16T11:23:00 460Z Metal. “What happened when Babymetal went head-to-head with Metallica in Seoul”. Metal Hammer Magazine (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 3 năm 2019.
  77. ^ “BABYMETAL to support Red Hot Chili Peppers' U.S. tour”. tokyohive. 6Theory Media, LLC. 6 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2021.
  78. ^ “Lineup”. KISW Pain In The Grass 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2017.
  79. ^ Ahner, Raymond (30 tháng 6 năm 2017). “Korn Fires Up Shoreline”. sfsonic.com. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2017.
  80. ^ Hartmann, Graham (14 tháng 4 năm 2017). “Babymetal Reveal Age-Restricted + Dress Code Festival Shows”. Loudwire (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2018.
  81. ^ @matthew__ashton (21 tháng 7 năm 2017). “@BABYMETAL_JAPAN the band behind the upcoming #Unikitty TV Show theme song!” (Tweet) – qua Twitter.
  82. ^ Thompson, Luke Y (28 tháng 8 năm 2018). “DVD Review: Everything's Still Awesome For LEGO's 'Unikitty!'. Forbes. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2019.
  83. ^ “LEGEND - S - BAPTISM XX – Confirmed!!”. BABYMETAL (bằng tiếng Anh). 15 tháng 10 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2017.
  84. ^ Inc., Natasha. “【ライブレポート】BABYMETAL、新たな時代の幕開け飾ったSU-METAL凱旋公演2DAYS(写真10枚) - 音楽ナタリー” (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2017.
  85. ^ “Important Notice about the Hiroshima Performance LEGEND – S – BAPTISM XX –”. BABYMETAL (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2017.
  86. ^ “BABYMETAL、36歳で亡くなったギタリストの藤岡幹大に追悼の意を表明” [Babymetal Express Condolences to Guitarist Mikio Fujioka, Who Died Age 36]. NME Japan. 10 tháng 1 năm 2018.
  87. ^ “BABYMETAL Have Revealed A New 'Revelation'. Kerrang!. 3 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  88. ^ Hill, John (3 tháng 4 năm 2018). “See Babymetal Tease Upcoming Graphic Novel in "Metal Resistance Episode VII" Video”. Revolver Magazine.
  89. ^ 'Apocrypha' Graphic Novel Brings Cult Japanese Metal Band Babymetal to Comics (Exclusive)”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). 3 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2018.
  90. ^ Butler, Will (1 tháng 5 năm 2018). “Babymetal have launched their own record label”. NME.
  91. ^ Pasbani, Robert (7 tháng 5 năm 2018). “BABYMETAL Unveil Surprise New Song "Distortion" To Kick Off Their World Tour”. Metal Injection. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2018.
  92. ^ Pettigrew, Jason (10 tháng 5 năm 2018). “Yuimetal is still in BABYMETAL”. Alternative Press. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2018.
  93. ^ “水野由結7カ月休業に質問集中、アミューズ株主総会” [Questions Focused on Yui Mizuno's 7 Month Absence at Amuse Shareholders' Meeting]. Nikkan Sports (bằng tiếng Nhật). 25 tháng 6 năm 2018.
  94. ^ Chapstick, Kelsey (19 tháng 10 năm 2018). “Babymetal Announce Yuimetal's Departure, Debut Cosmic New "Starlight" Video”. Revolver Magazine.
  95. ^ Mizuno, Yui (19 tháng 10 năm 2018). “アミューズ オフィシャル ウェブサイト - AMUSE OFFICIAL WEBSITE -”. アミューズ オフィシャル ウェブサイト - AMUSE OFFICIAL WEBSITE - (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
  96. ^ Childers, Chad (27 tháng 11 năm 2017). “Tool, Avenged Sevenfold + Alice in Chains to Headline 2018 Rock on the Range”. Loudwire. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2017.
  97. ^ “Babymetal, Rise Against and loads more have signed up for Download Festival 2018”. Upset Magazine. 28 tháng 11 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  98. ^ Bauer, Peter H. (1 tháng 6 năm 2018). “Girl-Power: Bilder von Babymetal live bei Rock am Ring 2018” [Girl Power: Pictures of Babymetal live at Rock am Ring 2018]. Regioactive.de (bằng tiếng German).Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  99. ^ “Rock im Park 2018: Fotos von Alt-J, Casper, Thirty Seconds To Mars, Marilyn Manson – der Festival-Samstag” [Rock im Park 2018: Pictures of Alt-J, Casper, Thirty Seconds to Mars, Marilyn Manson - Festival Sunday]. Musikexpress (bằng tiếng German). 3 tháng 6 năm 2018.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  100. ^ Hammer, Luke Morton2018-07-09T10:33:43Z Metal (9 tháng 7 năm 2018). “Babymetal win the Heavy Metal World Cup 2018”. Metal Hammer Magazine.
  101. ^ “BABYMETAL To Release New Album This Year”. Blabbermouth.net. 1 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2019.
  102. ^ brownypaul (9 tháng 5 năm 2019). “NEW BABYMETAL ALERT: Take a listen to 'Elevator Girl'. Wall Of Sound (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2019.
  103. ^ “Lewis Capaldi, Dave and Babymetal named on full Glastonbury line-up”. BBC News Online. 29 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2019.
  104. ^ Childers, Chad (22 tháng 4 năm 2019). “Babymetal Announce First U.S. Arena Headline Show, Tease May Single”. Loudwire.
  105. ^ Larsen, Peter (11 tháng 10 năm 2019). “Babymetal, the female-fronted Japanese metal band, answer questions before Forum show”. Los Angeles Daily News.
  106. ^ “BABYMETAL unveil tracklist and guest musicians for Metal Galaxy”. Consequence of Sound (bằng tiếng Anh). 9 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2019.
  107. ^ “BABYMETAL Set to Drop L.A. Forum Concert Video”. Billboard. 30 tháng 1 năm 2020.
  108. ^ DiVita, Joe (27 tháng 6 năm 2019). “Babymetal Release Aggressive New Song 'Pa Pa Ya!!'. Loudwire.
  109. ^ “BABYMETAL、夏のアッパーチューン"PA PA YA!! (feat. F.HERO)"を6/28より配信” [Babymetal Release Summer Jam "PA PA YA!!" July 28]. Rockin'on.com (bằng tiếng Nhật). 27 tháng 6 năm 2019.
  110. ^ “BABYMETAL、新曲「PA PA YA!!(feat. F.HERO)」横浜アリーナでの映像使用したライヴMV公開!英フェス"Glastonbury"初出演!” [New Babymetal Music Video for Song "Pa Pa Ya!! (feat. F.Hero)" Features Footage from Yokohama Arena Live. First Appearance at English Festival Glastonbury]. Gekirock (bằng tiếng Nhật). 1 tháng 7 năm 2019.
  111. ^ BABYMETAL To Have Three New Girls Fill In As Third Member; Unveil New "Pa Pa Ya!" Music Video Metal Injection. July 1, 2019. Retrieved July 1, 2019.
  112. ^ BABYMETAL、YUIMETAL脱退やアベンジャーズを語る「新しい風が吹いている」 - めるも [Babymetal Talks Yuimetal's Departure and the Avengers "A New Wind is Blowing"]. Merumo (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 9 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2019. Each of the three Avengers—former Morning Musume member Riho Sayashi, current Sakura Gakuin member Kano Fujihira, and former Sakura Gakuin member Momoko Okazaki—act as support dancers at Babymetal live shows. [アベンジャーズは元モーニング娘。の鞘師里保、さくら学院の現役メンバー藤平華乃、さくら学院の元メンバー岡崎百々子の3人がそれぞれにBABYMETALのライブでサポートダンサーを務めている。]
  113. ^ “Babymetal Perform First Show of 2019, Announce 'Metal Galaxy' World Tour: See Dates”. Billboard. 3 tháng 7 năm 2019.
  114. ^ Wright, Adam (15 tháng 11 năm 2019). “Hong Kong's biggest music festival Clockenflap cancelled after protests escalate”. South China Morning Post.
  115. ^ “[UPDATED] List of all postponed concerts in Indonesia so far over COVID-19”. Jakarta Post. 6 tháng 3 năm 2020.
  116. ^ “Babymetal's Jakarta concert canceled due to pandemic”. Jakarta Post. 19 tháng 6 năm 2020.
  117. ^ Aubrey, Elizabeth (8 tháng 4 năm 2020). “BABYMETAL announce 'Stay Home, Stay Metal' gigs: "Let's mosh'sh at home!". NME.
  118. ^ “BABYMETAL ライブDVD・ブルーレイ&ライブアルバム『LEGEND - METAL GALAXY』(幕張メッセ2DAYS) 2020年9月9日発売!特典情報も!” [Babymetal Live DVD/Blu-ray and Live Album "Legend – Metal Galaxy" Releases on September 9, 2020, with Special Offer]. HMV (bằng tiếng Nhật). 7 tháng 9 năm 2020.
  119. ^ Kennelty, Greg (24 tháng 10 năm 2019). “BABYMETAL Becomes The First Asian Act To Top Billboard's Top Rock Albums Chart”. metalinjection.net.
  120. ^ Roisin O'Connor; Rupert Hawksley (29 tháng 10 năm 2020). “Album reviews: Bring Me the Horizon, Elvis Costello and Eels”. The Independent. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2020.
  121. ^ “【紅白】BABYMETAL、結成10周年で初出場決定「とても楽しみ」” [Babymetal to Partake in NHK Kōhaku Uta Gassen on 10th Anniversary: "Incredibly excited"]. Oricon News (bằng tiếng Nhật). 16 tháng 11 năm 2020.
  122. ^ “2020年の紅白歌合戦、紅組で楽しみな曲は?” [Which Kōhaku Songs are the Most Anticipated?]. Yahoo! Japan (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2020.
  123. ^ “『第71回NHK紅白歌合戦』曲目発表!” [71st NHK Kōhaku Uta Gassen Programme Unveiled]. RBB (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 12 năm 2020.
  124. ^ “紅白歌合戦は紅組が4年ぶりに勝利...大トリMISIA、日本レコード大賞のLiSAや12月デビューNiziUがけん引” [Red Team Wins NHK Kōhaku Uta Gassen After four Years - Carried by Closing Act Misia, Japan Record Awards Winner LiSA, and December Debut NiziU]. Chūnichi Sports (bằng tiếng Nhật). 1 tháng 1 năm 2021.
  125. ^ “結成10年を記念した "BEST ALBUM" 10形態リリース決定!”. Toy's Factory (bằng tiếng Nhật). 10 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  126. ^ “10 BABYMETAL LEGENDS LIVE VINYL SERIES”. Toy's Factory (bằng tiếng Nhật). 4 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2021.
  127. ^ Aarons, Ricky (10 tháng 10 năm 2021). “BABYMETAL Post Cryptic Salutation Video Suggesting Hiatus or Closing Era”. Wall Of Sound (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2021.
  128. ^ Kaufman, Spencer (12 tháng 10 năm 2022). “BABYMETAL Announce New Album THE OTHER ONE”. Consequence (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2022.
  129. ^ “BABYMETAL、来年発売の初コンセプトアルバムから新曲「Divine Attack - 神撃 -」先行配信” [Preview Babymetal's First Concept Album with "Divine Attack - Shingeki - "]. Natalie.mu (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 10 năm 2022.
  130. ^ Moore, Sam (20 tháng 10 năm 2022). “Listen to Babymetal's new single 'Divine Attack – Shingeki'. NME. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2022.
  131. ^ Carter, Emily (20 tháng 10 năm 2022). “BABYMETAL unleash brand-new single, Divine Attack – Shingeki”. Kerrang!. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2022.
  132. ^ Krol, Charlotte (17 tháng 11 năm 2022). “Babymetal share first ever lyric video for new single 'Monochrome'. NME.
  133. ^ Wilkes, Emma (19 tháng 1 năm 2023). “Babymetal share thunderous new single 'Metal Kingdom' and reveal album tracklist”. NME.
  134. ^ Colothan, Scott (18 tháng 10 năm 2022). “Babymetal added to Sabaton's April 2023 UK arena tour”. Kerrang! Radio.
  135. ^ a b Plourde, Lorraine (1 tháng 5 năm 2018). “Babymetal and the ambivalence of cuteness”. International Journal of Cultural Studies (bằng tiếng Anh). 21 (3): 293–307. doi:10.1177/1367877916674741. ISSN 1367-8779.
  136. ^ “Babymetal: Japan's Cute Heavy Metal Band Releases New Video”. Huffington Post. 5 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2014.

    Young, Chris (6 tháng 5 năm 2015). “Concert sampler May 7 to 13: Fat White Family is pick of the week”. Toronto Star. Toronto, Ontario. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2015.

    Jones, Paul (21 tháng 4 năm 2015). “Alt-J and Palma Violets among 70 acts announced for Reading and Leeds”. Swindon Advertiser. Swindon, UK. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2015.

    “レディー・ガガ、BABYMETAL前座に最前列で大興奮 楽屋で4ショットも熱望”. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). 4 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2014.

    “ホーム芸能ニュースガガ、前座BABYMETALにノリノリ”. Nikkan Sports. 2014. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2014.

    “BABYMETAL:レディー・ガガのツアーサポートアクトに決定”. Entame Plex. 19 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2014.
  137. ^ a b Desslok, Leader (29 tháng 3 năm 2014). “BabyMetal: Kawai and Death Metal to Steal your Soul”. reach-unlimited. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2018.
  138. ^ “TOP10入りデビューするライブ重視の個性派アイドル~Cheeky Parade、BABYMETAL”. ORICON BiZ online (bằng tiếng Nhật). Oricon. 21 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  139. ^ Craig, Timothy J. (2015). Japan Pop: Inside the World of Japanese Popular Culture. New York, USA: M. E. Sharpe. tr. 76. ISBN 9780765605603. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2015.
  140. ^ Galbraith, Patrick W. (2012). Idols and Celebrity in Japanese Media Culture. Palgrave Macmillan. tr. 154. ISBN 978-0-230-29830-9. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2015.
  141. ^ Gotrich, Lars (18 tháng 3 năm 2016). “Songs We Love: Babymetal, 'Karate'. NPR. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2018.
  142. ^ “album review: 'metal resistance' by babymetal”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2018.
  143. ^ Millard, Drew (4 tháng 3 năm 2014). “Babymetal Is Your New Favorite Japanese Nu Metal Girl Group”. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2022.
  144. ^ Fitzmaurice, Micah Nathan (8 tháng 4 năm 2016). “A Female-Fronted Japanese Metal Band Just Took Over Colbert, and They Won't Stop There”. Vanityfair. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2018.
  145. ^ Peterson, Tristan (9 tháng 4 năm 2014). “Album Reviews : Babymetal – "Babymetal". Metal Obsession. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2017.
  146. ^ “Headbanging with BABYMETAL at Rock In Japan 2013”. MTV 81. 26 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2013.
  147. ^ Melody, Goh (18 tháng 4 năm 2014). “Kawaii! Babymetal, teenage girls with a love for metal music”. The Star. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2014.

    Alex, Hudson (10 tháng 7 năm 2014). “Did Babymetal invent 'cute metal' and what is it?”. BBC News. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2014.

    St. Michel, Patrick. “Babymetal: "Babymetal". The Japan Times. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2014.
  148. ^ Kennedy, Lewis F. (18 tháng 12 năm 2020). Valijärvi, Riitta-Liisa; Doesburg, Charlotte; DiGioia, Amanda (biên tập). Is kawaii Metal? Exploring aidoru/Metal Fusion Through the Lyrics of Babymetal. Multilingual Metal Music: Sociocultural, Linguistic and Literary Perspectives on Heavy Metal Lyrics. tr. 201–219. doi:10.1108/978-1-83909-948-920200018. ISBN 978-1-83909-949-6.
  149. ^ a b Phro, Preston (20 tháng 6 năm 2013). “Put your kitsune up! BABYMETAL is set to dominate the world with 'dangerous kawaii'. Rocketnews24.com. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2014.
  150. ^ Reyan, Ali (1 tháng 8 năm 2012). “Seriously, what is Babymetal?”. The Phoenix. Portland, Oregon. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2014.
  151. ^ a b “BABYMETAL”. Hot Wave (Phỏng vấn). Phóng viên Noboru Yamamoto. Saitama Prefecture: Television Saitama. 13 tháng 2 năm 2013.
  152. ^ “12~13歳女の子の「ヘビメタアイドル」 「さくら学院 BABYMETAL」に世界が大注目” [12 to 13 Year Old Girls World's Hottest "Heavy Metal Idols" – Sakura Gakuin's BABYMETAL]. J-CAST (bằng tiếng Nhật). 16 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2013.
  153. ^ “BABYMETAL、「扇風機ヘドバン」「土下座ヘドバン」が舞い踊るミュージックビデオが完成”. Barks (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2014.
  154. ^ “「アイドルとメタルの融合」ヘヴィメタル・ダンスユニットBABYMETALのCDの全貌が明らかに”. Barks (bằng tiếng Nhật). 9 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2014.
  155. ^ a b Yamamoto, Noboru (19 tháng 6 năm 2013). “Hotwave” (Phỏng vấn). Saitama: Television Saitama.
  156. ^ Kawaii Girl Japan (4 tháng 10 năm 2013). “BABYMETAL is off to the Top Metal Festival in Japan! Performance at LOUD PARK 13 Confirmed”. Barks.jp. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2014.
  157. ^ “METALLICA movie x BABYMETAL, "Gods of Metal" collaborative commercial released”. Barks (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 11 năm 2013.
  158. ^ “テキストリポート【アイドル横丁祭!!】℃-ute、SUPER☆GiRLS、BABYMETALなど豪華7組が出演した【アイドル横丁祭!!】をリポート!楽屋コメント&撮りおろしのライブ写真とたっぷりとお届けします!動画は随時更新していくよ!”. Kawaii Girl Japan. 18 tháng 4 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2014.
  159. ^ Kawaii Girl Japan (26 tháng 7 năm 2013). “[Kawaii girl Japan/ Concert Report] BABYMETAL Performed a New Song at NHK Hall Solo Show”. Barks.jp. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2023.
  160. ^ “Babymetal's video is the greatest ever — or the worst”. USA TODAY (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2019.
  161. ^ a b Stanley, Mickey (24 tháng 9 năm 2015). “Japanese Idol Group Babymetal Talk Ariana Grande and The Fox God”. Nylon. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2016.
  162. ^ Benjamin, Jeff (20 tháng 1 năm 2015). “Meet Kobametal, the Mysterious Mastermind Behind Babymetal - Fuse”. Fuse. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2016.
  163. ^ a b c “Once Upon a Time, Babymetal's Members Admit They Were 'Afraid' of Metal”. Billboard. 4 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2016.
  164. ^ Mongredien, Phil (3 tháng 4 năm 2016). “Babymetal: Metal Resistance review – genre mashup breaks all the rules”. The Observer. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2016.
  165. ^ Hadusek, Jon (7 tháng 4 năm 2016). “Album Reviews: BABYMETAL – "Metal Resistance". Consequence of Sound. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2016.
  166. ^ Bassett, Jordan (tháng 4 năm 2016). “NME Reviews - Babymetal - 'Metal Resistance'. NME. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2016.
  167. ^ Sendra, Tim. “Metal Resistance – BABYMETAL”. Allmusic. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2016.
  168. ^ Hudson, Alex (7 tháng 10 năm 2014). “Did Babymetal invent 'cute metal' and what is it?”. BBC Newsbeat (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2019.
  169. ^ “A beginner's guide to Kawaii metal”. The Concordian (bằng tiếng Anh). 14 tháng 3 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2019.
  170. ^ Orsini, Lauren. “Checking In With Ladybeard After 4 Months Of 'Deadlift Lolita'. Forbes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2019.
  171. ^ reprobatemagazine (4 tháng 4 năm 2016). “The Rise and Rise of Kawaii Metal”. The Reprobate (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2019.
  172. ^ “Babymetal break Official Chart record with Metal Resistance album”. www.officialcharts.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2019.
  173. ^ a b “Babymetal album is Japan's 1st to crack U.S. Billboard's top 40 in 53 years”. SoraNews24 -Japan News- (bằng tiếng Anh). 14 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2019.
  174. ^ “Babymetal Becomes First Asian Act to Rule Top Rock Albums Chart”. Billboard (bằng tiếng Anh). 23 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2019.
  175. ^ “加山雄三、BABYMETALを大絶賛「最初に聞いてすげーと思った」”. デイリースポーツ. 神戸新聞社. 30 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2016.
  176. ^ “Special 対談/小泉純一郎|和書”. ぴあ Special Issue 湯川れい子80th記念本、発売決定!「音楽を愛して、音楽に愛されて〜湯川れい子 80th記念BOOK〜」. ぴあ (2016年6月29日): 10.
  177. ^ “X JAPAN・YOSHIKIがBABYMETALについて言及 共演の可能性も示唆!”. Aolニュース (2015年7月27日).
  178. ^ 週刊新潮(新潮社) 2016年 4月21日号 40p
  179. ^ “加山雄三がBABYMETALを大絶賛「オレはジジイの大ファン」”. 週刊新潮. 新潮社 (2016年4月21日号). Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2016.
  180. ^ カネコシュウヘイ (5 tháng 2 năm 2015). “なぜBABYMETALなのか。『ヘドバン』編集長・梅沢直幸さんインタビュー”. ダ・ヴィンチNEWS. 株式会社KADOKAWA. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2015.
  181. ^ “Meet the teen idols behind Babymetal, Japan's bizarre metal sensation”. The Daily Dot (bằng tiếng Anh). 21 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2019.
  182. ^ Lawson, Dom (13 tháng 3 năm 2014). “Babymetal: Japan's rockers in knee socks”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2019.
  183. ^ “Babymetal shreds heavy-metal's seriousness at the Fonda - LA Times”. Los Angeles Times. 29 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2019.
  184. ^ a b “「真のメタル、偽メタル、そしてBABYMETAL」 ジャンルを超えた魅力、海外で話題”. NewSphere. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2019.
  185. ^ “There is True Metal, There is False Metal, and There is Babymetal/ A Review of Babymetal's First Ever U.S. Performance in Los Angeles”. MetalSucks. 29 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2017.
  186. ^ “APMAs 2016 Performance: BABYMETAL perform with ROB HALFORD of JUDAS PRIEST”. Alternative Press. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  187. ^ “APMAs 2016 Interview: BABYMETAL | PRS Lounge”. Alternative Press. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2016.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)“Baby Priestが示すもの”. 文書の形. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2016.
  188. ^ 大村孝佳 🚬 🍺 ✋(΄⌒◞౪◟⌒`) (2 tháng 2 năm 2013). “IKUOさんの隠蔽ゼロ体質は、日本が見習うべき姿であると感じました。卒倒しそうです(꒪ω꒪υ) #白目 RT @IKUObass190: おー!ギターの神(笑)!お疲れ様でした!"@TakayoshiOhmura:@IKUObass190 お疲れメタルの神様でした〜(❛ᴗ❛人)✧”. @TakayoshiOhmura (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2019.
  189. ^ a b c “The Best Worst Band in the World Are Playing the UK – Lord Have Mercy”. Huffington Post UK. 29 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2014.
  190. ^ McQuistan, Colin (14 tháng 7 năm 2014). “An Interview With Babymetal – Bow Down to Your Kitsune”. Huffington Post. New York, USA. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2015.
  191. ^ “Welcome to Aol.jp” BABYMETAL「神バンド」に新ギタリスト加入か?ネット上で話題沸騰中. AOL.jp (bằng tiếng Nhật). 22 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2016.
  192. ^ 青山英樹 (2 tháng 2 năm 2013). “Gt.Baの神々の皆様お疲れ様でした! Drのメタル小僧です(笑) "@IKUObass190: おー!ギターの神(笑)!お疲れ様でした!"@TakayoshiOhmura: @IKUObass190 お疲れメタルの神様でした〜(❛ᴗ❛人)✧ また宜しくお願い致します☆"". @aoyama_hideki (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2019.
  193. ^ Payne, Chris (9 tháng 1 năm 2018). “Babymetal Guitarist Mikio Fujioka Dies at 36”. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2018.
  194. ^ “Who Is The New Third Member of BABYMETAL?”. Metal Injection. 30 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2019.
  195. ^ ミミー, アミューズ (29 tháng 6 năm 2019). “えっと...2012年度と2014年度と2019年度の#生徒会長 揃った? よねぇ? #横浜アリーナ”. @amusemimiy (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2019.
    The tweet was posted by Mimiy, the official "mascot" of Amuse, Inc. which includes Babymetal and Sakura Gakuin. The tweet makes references to Student Council presidents of years 2012, 2014, and 2019 (of Sakura Gakuin), who are Suzuka Nakamoto, Moa Kikuchi, and Kano Fujihira, respectively, (“さくら学院 - 卒業生”. さくら学院. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2019. “さくら学院 - 生徒紹介 - 藤平 華乃”. さくら学院. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2019.) while making reference to the show at Yokohama Arena.
  196. ^ “BABYMETAL Announces New Album 'The Other One'. Blabbermouth.net. 11 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2022.
  197. ^ “MAN WITH A MISSION、BABYMETALら、ヨーロッパ最大級の音楽アワード"2014 MTV EMA"のワイルドカード枠にノミネート!Twitterによるファン投票受付スタート!”. Geki-Rock (bằng tiếng Nhật). 9 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 14 tháng 9 năm 2014.
  198. ^ “NEO Awards 2014 WINNER of Best Musical Act”. NeoMag.co.uk. 28 tháng 1 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2016.
  199. ^ Musicman-Net (18 tháng 7 năm 2014). “「第7回CDショップ大賞2015」一次ノミネート作品発表” [1st-stage nominees announced for "7th CD Shop Awards 2015"]. Gadget Tsūshin (getnews.jp) (bằng tiếng Nhật). Tokyo Sangyo Shimbunsha. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2014.
  200. ^ “BABYMETALがCDショップ大賞!SU-METAL「すごくドキドキ」”. Natalie.mu. 9 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
  201. ^ Hartmann, Graham 'Gruhamed' (3 tháng 2 năm 2015). “Babymetal Win Best New Act in 4th Annual Loudwire Music Awards”. Loudwire. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2015.
  202. ^ “The Relentless Kerrang! Awards 2015 Winners List”. Kerrang!. 11 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2015.
  203. ^ “The winner of Breakthrough is @BABYMETAL_JAPAN!”. Metal Hammer. 15 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2015.
  204. ^ “Babymetal”. MTV. 26 tháng 10 năm 2015.
  205. ^ “Winners MTV VMAJ 2015”. MTV Japan. 9 tháng 11 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2018.
  206. ^ “2015年、もっとも輝いた男たち 「GQ Men of the Year 2015」受賞者を発表|メンズファッション、時計、高級車、男のための最新情報”. GQ JAPAN. 20 tháng 11 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2015.
  207. ^ “唯一無二の女性に」BABYMETAL、「GQ Men of the Year」特別賞を受賞”. Natalie. 19 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2015.
  208. ^ “VOGUE JAPAN Women of the Year 2015 - ウーマン・オブ・ザイヤー 2015”. Vogue Japan. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2015.
  209. ^ “NEO Awards 2015 WINNER of Best Musical Act”. imgur.com. 18 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2016.
  210. ^ “Most Devoted Fans of 2015 - 5th Annual Loudwire Music Awards”. Loudwire. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2015.
  211. ^ “Best Live Act of 2015 - 5th Annual Loudwire Music Awards”. Loudwire. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2015.
  212. ^ “Best Metal Song of 2015 - 5th Annual Loudwire Music Awards”. Loudwire. 29 tháng 10 năm 2015.
  213. ^ “Vote for the Most Anticipated Release of April 2016!”. Loudwire. 15 tháng 3 năm 2016.
  214. ^ a b c “MTV VMAJ 2016 ジャスティン・ビーバーが最多4部門にノミネート”. MTV Japan. 9 tháng 5 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2016.
  215. ^ a b “MTV VMAJ 2016 受賞作品&特別賞発表 - 音楽ニュース”. MTV JAPAN (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2017.
  216. ^ Blake, Jimmy (10 tháng 6 năm 2016). “Kerrang! Awards 2016: Blink-182, All Time Low and Babymetal among the winners”. BBC Newsbeat.
  217. ^ Vallecillo, Alix (4 tháng 4 năm 2016). “Metal Hammer Golden Gods announce nominations for 2016”. Metalinsider.net.
  218. ^ “And the nominees for the 2016 APMAs are...”. Alternative Press. 17 tháng 3 năm 2016.
  219. ^ “AIM Independent Music Awards”. 9 tháng 6 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2016.
  220. ^ “Revolver Music Awards Nominees”. Revolvermag.com. 2 tháng 11 năm 2016.
  221. ^ “Best Metal Album of 2016 - 6th Annual Loudwire Music Awards”. Loudwire. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2017.
  222. ^ “Best Metal Song of 2016 - 6th Annual Loudwire Music Awards”. Loudwire. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2017.
  223. ^ “Rock Goddess of the Year 2016 - 6th Annual Loudwire Music Awards”. Loudwire. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2017.
  224. ^ “Best Live Act of 2016 - 6th Annual Loudwire Music Awards”. Loudwire. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2017.
  225. ^ “Most Devoted Fans 2016 - 6th Annual Loudwire Music Awards”. Loudwire. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2017.
  226. ^ “Most Dedicated Fans 2017 - 7th Annual Loudwire Music Awards”. Loudwire. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2017.
  227. ^ “MTV Has Chosen Best Worldwide Act Winners!”. MTVEMA. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2017.
  228. ^ “Winners MTV VMAJ 2020”. MTV Japan. 31 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2020.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
[Review] Socrates thân yêu – Cửu Nguyệt Hy
[Review] Socrates thân yêu – Cửu Nguyệt Hy
Thực sự sau khi đọc xong truyện này, mình chỉ muốn nam chính chết đi. Nếu ảnh chết đi, cái kết sẽ đẹp hơn biết mấy
Yuki Tsukumo - Nhân vật tiềm năng và cái kết đầy nuối tiếc
Yuki Tsukumo - Nhân vật tiềm năng và cái kết đầy nuối tiếc
Jujutsu Kaisen là một series có rất nhiều nhân vật khác nhau, với những khả năng, tính cách và cốt truyện vô cùng đa dạng
Ethereum, Cosmos, Polkadot và Solana, hệ sinh thái nhà phát triển của ai là hoạt động tích cực nhất?
Ethereum, Cosmos, Polkadot và Solana, hệ sinh thái nhà phát triển của ai là hoạt động tích cực nhất?
Làm thế nào các nền tảng công nghệ có thể đạt được và tăng giá trị của nó trong dài hạn?
Tìm hiểu cơ chế tính điểm phim của IMDb
Tìm hiểu cơ chế tính điểm phim của IMDb
Ratings trên IMDb được tính toán dựa trên số điểm của users theo thang từ 1-10