Ben Stiller

Ben Stiller
Stiller tại RTL-Spendenmarathon năm 2014
SinhBenjamin Edward Meara Stiller
30 tháng 11, 1965 (58 tuổi)
Thành phố New York, New York, Hoa Kỳ
Nghề nghiệpDiễn viên hài, nhà làm phim
Năm hoạt động1980–nay
Phối ngẫu
Christine Taylor (cưới 2000)
Con cái2
Cha mẹJerry Stiller
Anne Meara

Benjamin Edward Meara "Ben" Stiller (sinh ngày 30 tháng 11 năm 1965) là một diễn viên, danh hài, nhà biên kịch, đạo diễn và nhà sản xuất người Mỹ. Anh là con trai của các danh hài kỳ cựu Jerry StillerAnne Meara. Sau khi bắt đầu sự nghiệp diễn xuất của mình với một vở kịch, Stiller đã viết nhiều phim châm biếm xã hội, anh đã được giao làm chương trình riêng của mình mang tên The Ben Stiller Show do anh sản xuất và tổ chức cho toàn chương trình: 13 tập.[1] Sau khi diễn xuất trên truyền hình, anh bắt diễn xuất trong các bộ phim điện ảnh; anh xuất hiện lần đầu với tư cách đạo diễn của mình với Reality Bites. Trong suốt sự nghiệp của mình, anh đã viết, đã đóng vai chính trong, làm đạo diễn và sản xuất trên 50 bộ phim, bao gồm Bí mật của Walter Mitty, Zoolander, There's Something About Mary, Meet the Parents, DodgeBall, Tropic Thunder, loạt Madagascar, Night at the Museum, và phần tiếp theo Đêm kinh hoàng 2. Ngoài ra, anh đã có nhiều vai diễn khách mời trong video ca nhạc, chương trình truyền hình và phim. Stiller là một thành viên của hội anh em diễn xuất hài hước, một hội có tên gọi thông tục gọi là Frat Pack. Các phim của anh đã thu về hơn 2,6 tỷ USD trong Canada và Hoa Kỳ, với mức trung bình 79 triệu USD. Trong suốt sự nghiệp của mình, anh đã nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm một giải Emmy, nhiều giải Điện ảnh của MTV và một giải Teen Choice.

Tuổi thơ

[sửa | sửa mã nguồn]

Benjamin Edward Meara Stiller sinh ngày 30 tháng 11 năm 1964 tại thành phố New York.[2][3][4] Cha anh, diễn viên hài Jerry Stiller (sinh 1927) là một người Do Thái di cư từ Ba Lan và GaliciaĐông Âu.[5] Mẹ anh, nữ diễn viên hài Anne Meara (1929-2015) vốn là một người công giáo đã chuyển sang đạo Do Thái sau khi kết hôn với cha anh.[6][7][8] Trong khi gia đình "cực kỳ sùng đạo", họ vẫn tổ chức cả Hanukkah và Giáng sinh,[9] riêng Stiller còn có một Bar Mitzvah.[10][11]

Sự nghiệp diễn xuất

[sửa | sửa mã nguồn]

Khởi nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm anh mới khoảng 15 tuổi, Stiller kiếm được một vai nhỏ trên chương trình soap opera Guiding Light, mặc dù trong một bài phỏng vấn anh mô tả vai diễn này thật kém cỏi.[12] Sau đó anh được tuyển một vai diễn trong vở kịch làm lại Broadway 1986 The House of Blue Leaves của John Guare bên cạnh John Mahoney, nhà sản xuất sẽ đoạt bốn giải Tony sau này.[13] Trong thời gian này Stiller còn sản một bộ phim tài liệu châm biếm chính nam diễn viên đồng hương Mahoney. Diễn viên và đoàn làm phim đã ghi nhân năng khiếu hài hước, và sau đó anh xuất hiện trong một bộ phim ngắn 10 phút gọi là The Hustler of Money, một phim nhại tác phẩm The Color of Money của Martin Scorsese. Bộ phim ngắn đã gây sự chú ý của Saturday Night Live khi phát sóng nó năm 1987, và hai năm sau đài đã đề nghị anh một vị trí trong đội ngũ biên kịch.[13] Trong thời gian này anh còn có một vai nhỏ trong Empire of the Sun của Steven Spielberg.[14]

The Ben Stiller Show

[sửa | sửa mã nguồn]

Các nhà sản xuất tại MTV rất ấn tượng với Back to Brooklyn đến nỗi họ đã đề nghị Stiller làm một chương trình 13 tập theo định dạng "vid-com" thử nghiệm.[15] Lấy tên là The Ben Stiller Show, chương trình là sự kết hợp giữa những vở hài kịch ngắn với video âm nhạc và nhại theo nhiều chương trình truyền hình, ngôi sao âm nhạc và phim ảnh. Chương trình có sự tham gia của chính Stiller, bên cạnh hai biên kịch chính Jeff Khan và Harry O'Reilly, với cha mẹ và em gái anh thường xuyên xuất hiện.[15]

Đạo diễn đầu tay

[sửa | sửa mã nguồn]
A crowd of people is all looking towards a man at the center who is signing a hat. The crowd is attempting to hand him posters to sign and others are taking pictures using cameras and cell phones.
Stiller ký tặng trước một buổi công chiếu Tropic Thunder tại trại Pendleton ngày 3 tháng 8 năm 2008.

Stiller có một vài vai nhỏ trong đầu thập niên 1990 trong những bộ phim như Stella, Highway to Hell và một vai khách mời trong The Nutt House. Năm 1992, Stiller được tiếp cận để đạo diễn Reality Bites, dựa trên một kịch bản của Helen Childress. Stiller dành một năm rưỡi tiếp theo để viết lại kịch bản với Childress, gây quỹ và tuyển dàn diễn viên cho phim. Phim cuối cùng được công chiếu đầu năm 1994, do Stiller đạo diễn và tham gia đóng vai phụ.[13] Phim do Danny DeVito đạo diễn, người sau này sẽ đạo diễn bộ phim năm 2003 của Stiller Duplex và sản xuất bộ phim năm 2004 của anh Along Came Polly.[16] Reality Bites ra mắt ở vị trí bộ phim có doanh thu cao nhất ngay trong tuần đầu công chiếu và nhận được nhiều phản hồi trái chiều.[17][18]

Vai diễn hài

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1998, Stiller tạm dừng những tham vọng đạo diễn để tham gia trong bộ phim đình đám There's Something About Mary của anh em nhà Farrelly bên cạnh Cameron Diaz, giúp nâng tầm sự nghiệp diễn xuất của anh. Stiller còn được mời để tham gia dẫn chương trình các giải thưởng Video âm nhạc, nơi anh bắt chước Backstreet Boys và trình diễn một vở ca kịch với cha mình, bàn luận về sự nghiệp hiện tại của anh.[19] Năm 1999, anh tham gia đóng trong ba bộ phim, bao gồm Mystery Men, nơi anh đóng một vai wannabe siêu anh hùng gọi là Mr. Furious. Anh trở lại để đạo diễn một chương trình hài mới cho Fox có tên là Heat Vision and Jack với sự tham gia của Jack Black; tuy nhiên chương trình đã không được Fox lựa chọn sau khi tập thí điểm và sê-ri bị hủy bỏ.[20]

Năm 2000, Stiller đóng trong hơn ba bộ phim, bao gồm một trong những vai diễn dễ nhận ra nhất của anh, một nam y tá tên Gaylord "Greg" Focker trong Meet the Parents, đối đầu với Robert De Niro.[21] Phim nhận được phản hồi tích cực từ giới phê bình, thu về 330 triệu đô toàn cầu và sinh ra hai phần tiếp theo.[22][23] Cũng trong năm 2000, MTV một lần nữa mời anh làm một bộ phim ngắn khác, và anh đã phát triển Mission: Improbable, một phim nhại lại vai diễn của Tom Cruise trong Mission: Impossible II và một vài bộ phim khác.[24]

Năm 2011, Stiller, Eddie MurphyAlan Alda tham gia đóng trong Tower Heist, kể về một nhóm nhân viên bảo trì lên kế hoạch cho một vụ cướp trong một tòa nhà chọc trời.[25] Stiller còn sản xuất, đạo diễn và đóng chính trong Bí mật của Walter Mitty công chiếu năm 2013.[26] Tác phẩm công chiếu đầu tiên của anh năm 2014 là bộ phim hài kịch While We're Young do Noah Baumbach đạo diễn, trong đó anh thủ vai một nhà làm phim tài liệu kết bạn với một cặp vợ chồng trẻ.[27] Stiller và Owen Wilson xuất hiện tại Tuần thời trang Paris vào tháng 3 năm 2015 trong trang phục các nhân vật trong Zoolander và quay phần tiếp theo bắt đầu vào mùa xuân với Stiller đạo diễn một lần nữa.[28][29] Phần phim mang tên Trai đẹp lên sàn công chiếu vào tháng 2 năm 2016 với Penélope CruzKristen Wiig đóng vai phụ, nhận được phản hồi tiêu cực từ giới phê bình.[30]

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Giải thưởng và thành tựu

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Their House Won't Be Stiller They Had a Baby”. Seattle Post-Intelligencer. ngày 17 tháng 4 năm 2002. Bản gốc (Registration required) lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2009.
  2. ^ Friend, Tad (ngày 25 tháng 6 năm 2012). “Funny Is Money: Ben Stiller and the dilemma of modern stardom”. The New Yorker. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2015.
  3. ^ “Edward J. Meara, Former Resident, Dies In Boston” (PDF). Rockville Centre NY Long Island News and Owl. ngày 23 tháng 12 năm 1966. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2015.
  4. ^ “Ben Stiller Biography: Film Actor (1965–)”. Biography.com (FYI / A&E Television Networks. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2015.
  5. ^ Married to Laughter: A Love Story Featuring Anne Meara - Jerry Stiller. Google Books. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2013.
  6. ^ Wallace, Debra (ngày 19 tháng 11 năm 1999). “Stiller 'softy' in real life”. Jewish News of Greater Phoenix. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2009.
  7. ^ Dutka, Elaine (1 tháng 3 năm 1998). “Finding an Afterlife as a Playwright”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2013.
  8. ^ O'Toole, Lesley (ngày 22 tháng 12 năm 2006). “Ben Stiller:'Doing comedy is scary'. The Independent. London. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2013.
  9. ^ “What I know about women”. The Sydney Morning Herald.
  10. ^ Longsdorf, Amy (ngày 3 tháng 12 năm 2010). “Christine Taylor: Sweet for the holidays”. The Morning Call. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2010.
  11. ^ Stated on Inside the Actors Studio, 2001
  12. ^ “Something Something Japanese”. Conan. Mùa 2. Tập 121. ngày 26 tháng 7 năm 2012. TBS.
  13. ^ a b c Wills, Dominic. “Ben Stiller Biography”. Tiscali. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2009.
  14. ^ Svetkey, Benjamin (ngày 16 tháng 10 năm 1992). “Our Son the Comedian”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2010. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  15. ^ a b Wills, Dominic. “Ben Stiller – Biography”. Tiscali. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2010.
  16. ^ “Ben Stiller Finds 'Reality' is in the Genes”. New Straits Times. ngày 15 tháng 2 năm 1994. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2010.
  17. ^ “Reality Bites Weekend Box Office”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2010.
  18. ^ “Reality Bites (1993)”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2010.
  19. ^ “Madonna Rules at Routine MTV Video Music Awards”. Pittsburgh Post-Gazette. ngày 12 tháng 9 năm 1998. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2010.
  20. ^ Lawrence, Will (ngày 28 tháng 9 năm 2007). “Ben Stiller behaving badly”. London: guardian.co.uk. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2010.
  21. ^ Turan, Kenneth (ngày 6 tháng 10 năm 2000). “Meet the Parents”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2010.
  22. ^ “Meet the Parents”. Rotten Tomatoes. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2010.
  23. ^ “Meet the Parents”. Box Office Mojo. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2010.
  24. ^ Mills, Nancy (ngày 3 tháng 10 năm 2007). “Bride of Ben”. The Record. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2010.
  25. ^ Kit, Borys (ngày 13 tháng 10 năm 2010). “Eddie Murphy to Star in "Tower Heist". ABC News. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2010.
  26. ^ Barnes, Henry (ngày 20 tháng 7 năm 2011). “Ben Stiller to direct and star in The Secret Life of Walter Mitty”. The Guardian. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2015.
  27. ^ Corliss, Richard (ngày 11 tháng 4 năm 2015). “REVIEW: While We're Young: Can Ben Stiller Be a Happy 20-Something?”. Time. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2016.
  28. ^ Robinson, Joanna (ngày 10 tháng 3 năm 2015). “Watch Ben Stiller and Owen Wilson Strut Down a Paris Fashion Week Runway as Their Zoolander Characters”. Vanity Fair. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2016.
  29. ^ Evry, Max (ngày 9 tháng 2 năm 2015). “Zoolander 2 to Shoot in Rome This Spring!”. ComingSoon.Net. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2016.
  30. ^ “Zoolander 2 Reviews”. Metacritic. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2016.
  31. ^ “Awards for Ben Stiller”. Internet Movie Database. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2009.
  32. ^ “Ben Stiller to receive MTV honour”. BBC. ngày 23 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2010.
  33. ^ Dave McNary (ngày 23 tháng 8 năm 2011). “BAFTA/L.A. award to Ben Stiller”. Variety. Reed Elsevier Inc. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2012.
  34. ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 2 năm 2012.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  35. ^ “Zoolander 2 premiere: Ben Stiller snaps up Guinness World Records title for longest selfie stick”. ngày 5 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2016.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Đàn ông có để ý đến việc phụ nữ bị béo không?
Đàn ông có để ý đến việc phụ nữ bị béo không?
Cùng xem các bạn nam có quan tâm đến cân nặng không nhé
Nàng công chúa mọt sách Vietsub
Nàng công chúa mọt sách Vietsub
Eliana là một người yêu sách và cũng là vị hôn thê của hoàng tử Christopher. Một ngày nọ cô biết một cô gái đã có tình cảm với hoàng tử
Cà phê rang đậm có chứa nhiều Caffeine hơn cà phê rang nhạt?
Cà phê rang đậm có chứa nhiều Caffeine hơn cà phê rang nhạt?
Nhiều người cho rằng cà phê rang đậm sẽ mạnh hơn và chứa nhiều Caffeine hơn so với cà phê rang nhạt.
Giới thiệu Kiseijuu - bộ anime/manga kinh dị hay nhức nách
Giới thiệu Kiseijuu - bộ anime/manga kinh dị hay nhức nách
Được xem là một trong những siêu phẩm kinh dị khoa học viễn tưởng và giành được vô số giải thưởng của thế giới M-A, Parasyte chủ yếu nhắm tới độc giả là nam giới trẻ và trưởng thành