Biệt động Sài Gòn là danh xưng của lực lượng đặc công quân Giải phóng miền Nam, chuyên làm nhiệm vụ tập kích nhằm vào các cơ sở của quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa cũng như các công trình công cộng trong môi trường đô thị tại Sài Gòn trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam.
Theo Đại tá Nguyễn Đức Hùng (Tư Chung), nguyên Tư lệnh Biệt động Sài Gòn – Gia Định nêu lên trong hồi ký, lực lượng biệt động khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định ra đời từ Kháng chiến chống Pháp, bắt nguồn từ những đội vũ trang, tự vệ của người dân ở khu vực này từ thời tiền khởi nghĩa và Nam Bộ kháng chiến. Tuy nhiên, có thể nói lực lượng tiền thân chính thức đầu tiên ra đời sau chuyến mạo hiểm vào thành thị sát của Trung tướng Nguyễn Bình, và sau đó là quyết định hợp nhất các nhóm vũ trang trong nội đô để thành lập Ban Công tác Thành vào tháng 3 năm 1946.
Sau năm 1954, phần lớn cán bộ hành chính và lực lượng quân sự thuộc chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được tập kết ra Bắc. Số còn lại hoặc trở về đời sống dân sự hoặc tiếp tục hoạt động chính trị dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Bộ. Các ban Công tác Thành phố về danh nghĩa đều được giải thể.
Tuy nhiên, sau khi Nghị quyết 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam cho phép lực lượng kháng chiến miền Nam được phép chuyển sang đấu tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị, Quân Giải phóng tại miền Nam tái tập hợp và xây dựng lại lực lượng vũ trang. Trong đó đặc biệt chú trọng phát triển lực lượng vũ trang nội đô, đặc biệt là qua 2 hội nghị quân sự quan trọng của Quân khu Sài Gòn – Gia Định được tổ chức trong tháng 9 và tháng 10 năm 1961. Thông qua những hội nghị này, lực lượng biệt động Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định dần được xây dựng lại. Đến năm 1963, 4 đơn vị biệt động cấp quân khu được thành lập, gồm 65, 67, 69 và bộ phận trinh sát hoạt động ở nội thành. Một năm sau, thành lập thêm các đội 66, 68. Biệt động cấp quân khu được thành lập, đánh dấu bước phát triển trong quy mô và hiệu quả của trận chiến trong nội đô với những chiến công vang dội.[1].
Biệt động và đặc công là 2 lực lượng khác nhau.
Ngày 2 tháng 5 năm 1964, trong khi neo đậu tại Sài Gòn để bốc dỡ máy bay phục vụ chiến tranh, tàu sân bay hộ tống USS Card (CVE-11) bị biệt động Sài Gòn tấn công bằng người nhái. Chiến sĩ biệt động Lâm Sơn Náo đã bí mật lặn tới tàu, đặt 2 khối chất nổ, mỗi khối gồm 40 kg TNT và 2 kg C4. Hai khối thuốc nổ được đặt cách nhau 10m, áp chặt lườn tàu làm nổ tung hông tàu. Card bị đắm ở độ sâu 15 m (48 ft) nước (độ sâu sông Sài Gòn tại cầu cảng). 5 thủy thủ Mỹ chết, nhiều người bị thương, nhiều vũ khí bị chìm theo con tàu.
Trong Sự kiện Tết Mậu Thân 1968, lực lượng biệt động Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định chỉ với 88 người, chia làm 5 cánh, vào lúc 2 giờ sáng mùng 2 Tết Nguyên đán, tức ngày 31 tháng 1 năm 1968, đã thực hiện một số trận đánh rung chuyển Sài Gòn và dư luận thế giới.[2].
Toán tập kích này gồm 11 chiến sĩ biệt động, do Năm Lộc chỉ huy, chia làm 2 mũi tấn công chớp nhoáng chiếm được mục tiêu chỉ sau 15-20 phút. Nhiệm vụ là đánh chiếm và giữ đài phát thanh trong vòng 2 giờ, đồng thời phát đi lời hiệu triệu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, sau đó sẽ có đơn vị chính quy đến chi viện. Tuy nhiên, đến 4 giờ sáng mà quân tiếp viện không đến, đối phương nhận thấy tầm quan trọng của đài phát thanh nên đã tổ chức nhiều hỏa lực tấn công dồn dập vào Đài Phát thanh. Toán tập kích buộc phải cố thủ.[3] Đa số thành viên tử trận, còn lại bị bắt: một vài người bị thương và có 2 thành viên nữ.
Đêm ngày 31 tháng 1 năm 1968, toán tập kích di chuyển trên 2 xe du lịch chở 17 chiến sĩ đội 11 biệt động do Ba Đen chỉ huy nhanh chóng áp sát mục tiêu là Đại sứ quán Mỹ. Tiếng bộc phá nổ dữ dội, đánh sập một mảng tường bao. Kế hoạch rất táo bạo: chiếm giữ tòa nhà, bắt sống Đại sứ Mỹ Bunker (tuy nhiên viên đại sứ Bunker đã bỏ chạy từ trước), đợi bộ đội và 200 sinh viên Sài Gòn tiếp ứng.
Hai biệt động cầm súng AK quét nhiều loạt đạn, diệt hai quân cảnh Mỹ ở cổng chính. Tiếp đó biệt động dùng thuốc nổ phá thủng tường. Toán tập kích đã thâm nhập vào trong tòa nhà bằng lỗ thủng này, chiếm được tầng 1 và giao chiến với lực lượng thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và các nhân viên tòa đại sứ.
Đội 11 theo ba mũi: cổng trước, cổng sau (phía đường Mạc Đĩnh Chi) và dãy nhà nhân viên hành chính. Họ nhanh chóng chiếm gần hết tầng một và tiến lên tầng 2-3, tuy nhiên lại mất 2 xạ thủ B40. Tiểu đoàn 716 quân cảnh Mỹ không tái chiếm được tòa Đại sứ, tướng Frederick Weyand (Tư lệnh các lực lượng dã chiến Mỹ ở vùng 3 chiến thuật) điều một bộ phận từ lực lượng sư đoàn dù 101 đổ quân bằng trực thăng xuống nóc tòa nhà. Tuy nhiên, chiếc trực thăng đầu tiên bị bắn quá mạnh, việc đổ quân không thể thực hiện. 5 giờ sáng, quân Mỹ vây bốn phía bên ngoài, trực thăng Sư đoàn dù 101 cũng kéo tới, ngoài ra có thêm hỗ trợ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở tòa nhà bên cạnh bắn qua. 7h sáng, quân cảnh Mỹ mang mặt nạ xông vào cổng chính, lực lượng BĐ11 chống trả dữ dội, chính trị viên Út Nhỏ tử trận. 8 giờ, trực thăng mới có thể trở lại đổ quân xuống sân thượng, tấn công các chiến sĩ biệt động.
Trận đánh ác liệt và đẫm máu này được các phóng viên truyền đi toàn thế giới, làm chấn động dư luận thế giới về tính khốc liệt của chiến tranh. Mặc dù chiến đấu rất dũng cảm, nhưng do quân số ít và không có tiếp viện, sau 6 giờ chiến đấu, 15 chiến sỹ tử trận. Một xạ thủ người Sài Gòn bị thương nặng, chỉ huy Ba Đen người Thái Bình bị thương ngất đi và cả hai bị quân Mỹ bắt sống. Phía Mỹ tổn thất nặng nề: có 5 lính chết tại chỗ, 17 lính chết tại bệnh viện, 124 bị thương.
Tại mục tiêu Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, dù một trong 2 xe chở lực lượng biệt động bị nổ lốp phải hành quân bộ nhưng cả hai đội 8 và 9 biệt động, với quân số 24 người do Ba Phong dẫn đầu, đã kịp thời hợp đồng tác chiến, tấn công vào mục tiêu đã định trước. Tuy nhiên, do lực lượng bố phòng đã kịp thời bắn trả nên toán tập kích chỉ kịp chiếm được cổng vào rồi bị thương vong nặng, buộc phải rút lui.[4]
Tại mục tiêu Dinh Độc Lập, toán tập kích gồm 14 chiến sĩ Đội 5 biệt động do Ba Thanh chỉ huy. Do khối bộc phá lâu ngày ẩm mốc không nổ nên không thể phá tường tấn công. Bị lực lượng phòng vệ Phủ Tổng thống phản kích mạnh mất liên tiếp 5 người, toán tập kích co cụm trận địa, thương vong dần vì hỏa lực quá rát, buộc phải rút vào ngôi nhà cao tầng ở hướng đối diện và cố thủ trên tầng 3. Đến rạng sáng, do quân tiếp viện bị lạc, nên tất cả những người sống sót buộc phải rút thì bị đối phương vây ráp ở đường Thủ Khoa Huân; họ tự sát bằng lựu đạn nhưng thất bại và bị bắt.
Toàn bộ các trận tập kích giữa lực lượng biệt động với đối phương đều ở thế chênh lệch hàng trăm lần về quân số và trang bị. Chưa kể đến đặc thù tác chiến của biệt động đều là tác chiến nhanh, thiên về tập kích hơn là tác chiến chính quy. Mặc dù vậy, dựa vào ưu thế bất ngờ và lòng dũng cảm, 3/5 mục tiêu bị chiếm giữ trong nhiều giờ liền. Vì không có quân tiếp viện, không có hậu cần kịp thời, sự hy sinh của quân biệt động gần như là tất yếu, nhưng nỗ lực của họ đã gây tiếng vang tối đa về chính trị, góp phần vào thành công chung của chiến dịch.