Bitter Sweet Symphony

"Bitter Sweet Symphony"
Đĩa đơn của The Verve
từ album Urban Hymns
Phát hành16 tháng 6 năm 1997 (1997-06-16)
Thu âm1996
Thể loại
Thời lượng
  • 5:58 (bản album)
  • 4:33 (radio chỉnh sửa)
Hãng đĩaHut
Sáng tác
Sản xuất
Thứ tự đĩa đơn của The Verve
"History"
(1995)
"Bitter Sweet Symphony"
(1997)
"The Drugs Don't Work"
(1997)
Video âm nhạc
"Bitter Sweet Symphony" trên YouTube

"Bitter Sweet Symphony" là một bài hát của ban nhạc alternative rock Anh quốc The Verve nằm trong album phòng thu thứ ba của họ, Urban Hymns (1997). Nó được phát hành vào ngày 16 tháng 6 năm 1997 như là đĩa đơn đầu tiên trích từ album bởi Hut Recordings. Bài hát được viết lời bởi giọng ca chính của nhóm Richard Ashcroft, trong đó sử dụng đoạn nhạc mẫu từ phiên bản giao hưởng của Andrew Loog Oldham cho bài hát năm 1965 của The Rolling Stones "The Last Time", và dẫn đến một số cuộc tranh luận về pháp luật xung quanh vấn đề bản quyền mà sau đó đã được giải quyết ngoài tòa án. The Verve đã phải chấp nhận chia toàn bộ lợi nhuận cho hãng đĩa sở hữu bản quyền của "The Last Time" là ABKCO Records, đồng thời bổ sung Mick JaggerKeith Richards như là những người đồng sáng tác bài hát.[1]

"Bitter Sweet Symphony" là một bản Britpopbaroque pop được sản xuất bởi Martin "Youth" Glover và The Verve, với nội dung thể hiện một cái nhìn bi quan về lối sống thực dụng của con người trong xã hội. Sau khi phát hành, nó đã nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao nội dung lời bài hát và quá trình sản xuất của nó, đồng thời gọi đây là một trong những bài hát giúp định nghĩa cho kỷ nguyên thành công của thể loại Britpop trong thập niên 1990. Bài hát cũng gặt hái những thành công đáng ghi nhận về mặt thương mại, lọt vào top 10 ở nhiều quốc gia, bao gồm vươn đến top 5 ở Canada, Ireland, Ý và Vương quốc Anh. Tại Hoa Kỳ, bài hát được phát hành làm đĩa đơn vào ngày 10 tháng 3 năm 1998 bởi Virgin Records America, và đạt vị trí thứ 12 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100.

Video ca nhạc cho "Bitter Sweet Symphony" được đạo diễn bởi Walter A. Stern, trong đó bao gồm những cảnh Richard Ashcroft trình diễn bài hát khi đang bước đi trên một khu phố bận rộn ở London mà không quan tâm đến những gì đang diễn ra xung quanh nam ca sĩ, trước khi toàn bộ những thành viên của The Verve xuất hiện và bước đi cùng Ashcroft ở cuối video. Nó đã ngay lập tức nhận được nhiều lượt yêu cầu phát sóng trên những kênh truyền hình âm nhạc như VH1MTV, cũng như nhận được đề cử cho Video Anh quốc xuất sắc nhất tại giải Brit năm 1998 và ba đề cử tại giải Video âm nhạc của MTV năm 1998 cho Video của năm, Video xuất sắc nhất của nhóm nhạcVideo Alternative xuất sắc nhất, nhưng không thắng giải nào. The Verve đã trình diễn "Bitter Sweet Symphony" ở một số sự kiện, bao gồm buổi hòa nhạc Live 8 ở London với Coldplay, nơi nó được giới thiệu bởi Chris Martin như là "bài hát tuyệt vời nhất từng được sáng tác".

Được ghi nhận là bài hát trứ danh trong sự nghiệp của The Verve, "Bitter Sweet Symphony" đã lọt vào danh sách những bài hát hay nhất của thập niên 1990 lẫn mọi thời đại bởi nhiều tổ chức âm nhạc. Năm 2004, Rolling Stone đã xếp bài hát ở vị trí thứ 392 trong danh sách 500 bài hát vĩ đại nhất mọi thời đại.[2] Ngoài ra, nó còn nhận được một đề cử tại giải Brit năm 1998 cho Đĩa đơn Anh quốc xuất sắc nhất, và hai đề cử giải Grammy cho Bài hát rock xuất sắc nhấtTrình diễn song ca hoặc nhóm nhạc giọng rock xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 41. Bài hát cũng xuất hiện trong nhiều tác phẩm điện ảnh và quảng cáo thương mại, và được hát lại và sử dụng làm nhạc mẫu bởi một số nghệ sĩ, như Beyoncé, Limp BizkitLondon Grammar.

Danh sách bài hát

[sửa | sửa mã nguồn]

Xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận

[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[46] Vàng 35.000^
Pháp (SNEP)[47] Bạc 125,000*
Ý (FIMI)[48] Bạch kim 50.000*
Anh Quốc (BPI)[49] Bạch kim 600.000^
Hoa Kỳ (RIAA)[50] Vàng 500.000^

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “The Verve: Bitter Sweet Symphony”. allmusic. Rovi Corp. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2013.
  2. ^ “500 Greatest Songs of All Time”. Rolling Stone. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2011.
  3. ^ “The Verve – Bitter Sweet Symphony”. Discogs. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  4. ^ “The Verve – Bitter Sweet Symphony”. Discogs. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  5. ^ “The Verve – Bitter Sweet Symphony”. Discogs. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  6. ^ “The Verve – Bitter Sweet Symphony”. Discogs. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  7. ^ "Australian-charts.com – The Verve – Bitter Sweet Symphony" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  8. ^ "Austriancharts.at – The Verve – Bitter Sweet Symphony" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  9. ^ "Ultratop.be – The Verve – Bitter Sweet Symphony" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  10. ^ "Ultratop.be – The Verve – Bitter Sweet Symphony" (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  11. ^ “RPM 100 Hit Tracks”. Collectionscanada.gc.ca. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  12. ^ “RPM Alternative 30”. Library and Archives Canada. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  13. ^ “Hits of the World” (PDF). Billboard. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  14. ^ "The Verve: Bitter Sweet Symphony" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  15. ^ "Lescharts.com – The Verve – Bitter Sweet Symphony" (bằng tiếng Pháp). Les classement single. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  16. ^ “The Verve - Bitter Sweet Symphony” (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  17. ^ "The Irish Charts – Search Results – Bitter Sweet Symphony" (bằng tiếng Anh). Irish Singles Chart. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  18. ^ a b “I singoli più venduti del 1997” (bằng tiếng Ý). Hit Parade Italia. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  19. ^ "Nederlandse Top 40 – The Verve" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  20. ^ "Dutchcharts.nl – The Verve – Bitter Sweet Symphony" (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  21. ^ "Charts.nz – The Verve – Bitter Sweet Symphony" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  22. ^ "Norwegiancharts.com – The Verve – Bitter Sweet Symphony" (bằng tiếng Anh). VG-lista. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  23. ^ "Official Scottish Singles Sales Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  24. ^ "Swedishcharts.com – The Verve – Bitter Sweet Symphony" (bằng tiếng Anh). Singles Top 100. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  25. ^ "Swisscharts.com – The Verve – Bitter Sweet Symphony" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  26. ^ "The Verve: Artist Chart History" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  27. ^ "The Verve Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  28. ^ "The Verve Chart History (Adult Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  29. ^ "The Verve Chart History (Alternative Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  30. ^ "The Verve Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  31. ^ "The Verve Chart History (Rhythmic)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  32. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Singles 1997”. ARIA Charts. ARIA. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  33. ^ “Jaaroverzichten 1997”. Ultratop 50. Hung Medien. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  34. ^ “Rapports Annuels 1997”. Ultratop 50. Hung Medien. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  35. ^ “European Hot 100 Singles of 1997”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2003. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2020.
  36. ^ “Hits 1997 Finnland – Single-Charts” (bằng tiếng Đức). Chartsurfer.de. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  37. ^ “Classement Singles - année 1997”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2018.
  38. ^ “Jaarlijsten 1997” (bằng tiếng Hà Lan). Stichting Nederlandse Top 40. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  39. ^ “Jaaroverzichten - Single 1997” (bằng tiếng Hà Lan). GfK Dutch Charts. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  40. ^ “Topp 20 Single Sommer 1997” (bằng tiếng Na Uy). VG-lista. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  41. ^ “Årslista Singlar – År 1997”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 3 năm 2012.. Hitlistan.se.
  42. ^ “Swiss Year-End Charts 1997”. Swiss Singles Chart. Hung Medien. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2018.
  43. ^ “Najlepsze single na UK Top 40-1997 wg sprzedaży” (bằng tiếng Ba Lan). Official Charts Company. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  44. ^ “RPM's Top 50 Alternative Tracks of '98”. collectionscanada.gc.ca. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2018.
  45. ^ a b “1998: The Year in Music” (PDF). Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2018.
  46. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 1997 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  47. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Pháp – The Verve – Bitter Sweet Symphony” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  48. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Ý – The Verve – Bitter Sweet Symphony” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018. Chọn "Tutti gli anni" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "Bitter Sweet Symphony" ở mục "Filtra". Chọn "Singoli" dưới "Sezione".
  49. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – The Verve – Bitter Sweet Symphony” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018. Chọn single trong phần Format. Chọn Bạch kim' ở phần Certification. Nhập Bitter Sweet Symphony vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  50. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – The Verve – Bittersweet Symphony” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Bản mẫu:The Verve Bản mẫu:Đĩa đơn hay nhất năm của NME

Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Arcane - Liên minh huyền thoại
Arcane - Liên minh huyền thoại
Khi hai thành phố song sinh Piltover và Zaun ở thế mâu thuẫn gay gắt, hai chị em chiến đấu ở hai bên chiến tuyến cùng các công nghệ ma thuật và những niềm tin trái chiều.
Jujutsu Kaisen chương 239: Kẻ sống sót ngốc nghếch
Jujutsu Kaisen chương 239: Kẻ sống sót ngốc nghếch
Cô nàng cáu giận Kenjaku vì tất cả những gì xảy ra trong Tử Diệt Hồi Du. Cô tự hỏi rằng liệu có quá tàn nhẫn không khi cho bọn họ sống lại bằng cách biến họ thành chú vật
Nhân vật Makima - Chainsaw Man
Nhân vật Makima - Chainsaw Man
Cô được tiết lộ là Ác quỷ Kiểm soát (支 し 配 は い の 悪 あ く 魔 ま Shihai no Akuma?), Hiện thân của nỗi sợ kiểm soát hoặc chinh phục
Câu chuyện của Nobara và Fumi - Jujutsu Kaisen
Câu chuyện của Nobara và Fumi - Jujutsu Kaisen
Nói với mọi người giúp tớ, Itadori. Cuộc sống tớ đã không tồi đâu