Boysenberry

Rubus ursinus × R. idaeus[1]
Boysenberry trong các giai đoạn phát triển khác nhau
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Plantae
(không phân hạng)Angiosperms
(không phân hạng)Eudicots
(không phân hạng)Rosids
Bộ (ordo)Rosales
Họ (familia)Rosaceae
Chi (genus)Rubus
Phân chi (subgenus)Blackberry
Loài (species)R. ursinus × R. idaeus
Danh pháp hai phần
Rubus ursinus × R. idaeus

Boysenberry là một loài lai giữa mâm xôi châu Âu (Rubus idaeus), blackberry châu Âu (Rubus fruticosus), dewberry Mỹ (Rubus aboriginum), và loganberry (Rubus × loganobaccus).[2]

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn gốc chính xác của boysenberry không rõ ràng, nhưng những ghi chép chắc chắn nhất cho thấy loài cây này được biết đến ngày nay là do người trồng Rudolph Boysen, người đã lấy giống cha mẹ dewberry–loganberry từ trang trại của John Lubben.[3]

Vào đầu những năm 2000, boysenberry tươi thường chỉ được trồng để bán cho thị trường bởi các nông dân nhỏ ở California và được bán từ các trang trại và chợ địa phương.[4] Hầu hết boysenberry được trồng thương mại, chủ yếu từ Oregon, được chế biến thành các sản phẩm khác như mứt, bánh, nước trái cây, sirokem. Tính đến năm 2016, New Zealand là nhà sản xuất và xuất khẩu boysenberry lớn nhất thế giới.[5]

Boysenberry là loại hương vị cho kem phổ biến và được bán rộng rãi ở Úc, trong khi trái cây này chưa từng có trong các sản phẩm khác như mứt.

Kể từ năm 2007, một giống lai có tên là "Newberry" hoặc "Ruby Boysen", đã được phát triển để vượt qua những thách thức trồng trọt dẫn đến sự giảm sút phổ biến của giống boysenberry, và được tiếp thị thông qua các chợ nông sản và nhà bán lẻ ở California.[4] Ngoài ra còn có một giống lai với marionberry được gọi là "Silvanberry" ở Úc. Được xếp vào họ dâu đen, Sylvanberry có nhiều đặc điểm thường thấy ở các giống dâu đen khác. Những cây này sống lâu năm (15 đến 20 năm), chịu được lạnh và rét tốt, dễ trồng và lan rộng.[6]

Đặc điểm

[sửa | sửa mã nguồn]

Boysenberry mọc trên những cây theo dấu vết, thấp và được đặc trưng bởi kết cấu mềm, vỏ mỏng và hương vị ngọt ngào.

Quả của nó là một hợp quả lớn trọng lượng 8,0 gam (0,28 oz), có hạt lớn và màu hạt dẻ đậm.[4][7] Quả trưởng thành rất dễ rỉ nước và có thể bắt đầu thối rữa sau vài ngày thu hoạch.[4]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Boysenberry Characteristics” (PDF). Oregon Raspberry and Blackberry Commission. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2008.
  2. ^ Vaughan, John Griffith; C. A. Geissler (2009). The New Oxford Book of Food Plants. Oxford University Press. tr. 88. ISBN 978-0-19-954946-7. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2014.
  3. ^ Hancock, Jim F (2008). Temperate Fruit Crop Breeding: Germplasm to Genomics (pages 91-92). Springer Science & Business Media. ISBN 978-1402069079. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2017.
  4. ^ a b c d Karp, David (ngày 27 tháng 5 năm 2010). “Boysenberry, a California treasure”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2020.
  5. ^ “Welcome to Berryfruit New Zealand”. Berryfruit New Zealand. 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  6. ^ Silvanberry Planting – How To Grow Silvanberries
  7. ^ “Oregon Boysenberries” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2008.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Tất tần tật về nghề Telesales
Tất tần tật về nghề Telesales
Telesales là cụm từ viết tắt của Telephone là Điện thoại và Sale là bán hàng
Đấng tối cao Bellriver - Overlord
Đấng tối cao Bellriver - Overlord
Bellriver một trong những quân sư chiến lược gia trong hàng ngũ 41 Đấng Tối Cao của Đại Lăng Nazarick
Nhân vật Ponison Pop Perlia - Cô bé tinh linh nhút nhát Overlord
Nhân vật Ponison Pop Perlia - Cô bé tinh linh nhút nhát Overlord
Cô có vẻ ngoài của một con người hoặc Elf, làn da của cô ấy có những vệt gỗ óng ánh và mái tóc của cô ấy là những chiếc lá màu xanh tươi
Kusanali không phải Thảo Thần của Sumeru
Kusanali không phải Thảo Thần của Sumeru
Thảo Thần là một kẻ đi bô bô đạo lý và sống chui trong rừng vì anh ta nghèo