Brucit | |
---|---|
Thông tin chung | |
Thể loại | Khoáng vật oxide |
Công thức hóa học | Mg(OH)2 |
Phân loại Strunz | 04.FE.05 |
Hệ tinh thể | ba phương |
Nhóm không gian | tam giác lệch ba phương, sáu phương Ký hiệu H-M: (32/m) nhóm không gian: P3m1 |
Ô đơn vị | a = 3,142(1) Å, c = 4,766(2) Å; Z=1 |
Nhận dạng | |
Màu | trắng, lục nhạt, xanh dương, xám; vàng mật ong đến đỏ nâu |
Dạng thường tinh thể | tinh thể dạng trụ; tấm hoặc khối phân phiến hoặc hoa hồng – sợi đến khối |
Cát khai | hoàn toàn theo {0001} |
Vết vỡ | bất thường |
Độ bền | có thể cắt được |
Độ cứng Mohs | 2,5 tới 3 |
Ánh | thủy tinh tới trân châu |
Màu vết vạch | trắng |
Tính trong mờ | trong suốt |
Tỷ trọng riêng | 2,39 đến 2,40 |
Thuộc tính quang | một trục (+) |
Chiết suất | nω = 1.56–1.59 nε = 1.58–1.60 |
Khúc xạ kép | 0,02 |
Các đặc điểm khác | hỏa điện |
Tham chiếu | [1][2][3] |
Brucit là một dạng khoáng vật của magiê hydroxide, có công thức hóa học Mg(OH)2. Nó là sản phẩm thay thế phổ biến của pericla trong đá hoa; khoáng vật mạch nhiệt dịch nhiệt độ thấp trong đá vôi bị biến chất và clorit schist; và được hình thành trong quá trình serpentin hóa của dunit. Brucit thường được tìm thấy cộng sinh với serpentin, canxit, aragonit, dolomit, magnesit, hydromagnesit, artinit, talc và chrysotil.
Brucit được miêu tả đầu tiên năm 1824 và được đặt theo tên người phát hiện ra nó, một nhà khoáng vật học người Mỹ, Archibald Bruce (1777–1818). Các biến thể dạng sợi của Brucit được gọi là Nemalit. Ở dạng sợi thường nó kéo dài theo phương [1010], nhưng đôi khi là [1120].
Brucit được dùng làm chất chống cháy do nó bị phân hủy nhiệt sẽ sinh ra nước ở dạng tương tự như nhôm hydroxide và hỗn hợp của huntit và hydromagnesit.[4][5] Nó cũng là thành phần cung cấp nguồn magnesi quan trọng trong công nghiệp.