"Bug a Boo" | ||||
---|---|---|---|---|
Đĩa đơn của Destiny's Child | ||||
từ album The Writing's on the Wall | ||||
Phát hành | 17 tháng 10 năm 1999 | |||
Thu âm | 1998 | |||
Thể loại | R&B, hip hop | |||
Thời lượng | 3:31 (Phiên bản của album) 3:00 (Bản chỉnh của video) | |||
Hãng đĩa | Columbia | |||
Sáng tác | Kevin Briggs, Kandi, Beyoncé Knowles, LeToya Luckett, LaTavia Roberson, Kelly Rowland | |||
Sản xuất | She'kspere | |||
Thứ tự đĩa đơn của Destiny's Child | ||||
|
"Bug a Boo" (Tạm dịch: "Người tình Phá hoại") là một ca khúc được trình bày bởi nhóm nhạc Destiny's Child, trích từ album thứ hai của nhóm là The Writing's on the Wall. Ca khúc xuất hiện tại vị trí #33 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Tại Anh, "Bug a Boo" giành vị trí thứ 9 và bán hơn 99,400 bản tại đây.
"Bug-a-boo" là từ dùng để gọi một người có những hành động gây khó chịu cho mọi người, dù đó là những hành động bình thường như sự tò mò hay quậy phá nhưng ở đây những việc làm này được thực hiện một cách quá mức. Những việc làm này đồng thời cũng được nhóm đáp lại trong phần lời nhạc sau:
"You make me wanna throw my pager out the window
Tell MCI to cut the phone pole.
Break my lease so I can move,
'Cause you a bug a boo, a bug a boo.
I wanna put your number on the call block,
Have AOL make my e-mails stop.
'Cause you a bug a boo
You're bugging what, you're bugging who
You're bugging me and don't you see it ain't cool"
Lời dịch của những đoạn lời nhạc trên:
"Anh làm em muốn ném máy nhắn tin ra cửa sổ
Gọi MCI để cắt dây điện thoại.
Hãy dừng lại để em có thể sống,
Vì anh là một người tình phá hoại, người tình phá hoại.
Anh làm em muốn ngăn chặn của gọi của anh,
Khiến tài khoản AOL của em không gửi e-mail được.
Vì anh là một người tình phá hoại
Anh phá gì, anh phá ai
Anh phá em và anh thấy nó không hay sao"
Dù ca khúc không thành công trên các bảng xếp hạng nhưng video ca nhạc của ca khúc vẫn được yêu thích và được phát sóng nhiều trên kênh MTV và BET. Đây đồng thời cũng chính là video đầu tiên của nhóm nằm trong bảng xếp hạng TRL. Video này đã được đạo diễn bởi Darren Grant.
Trong video, nhóm đang bước đi trên đại lộ mua sắm. Bốn người đàn ông trong chiếc xe xanh khá để ý đến nhóm, nhưng Destiny’s Child có vẻ không để ý đến họ, vì vậy họ đã chọc phá nhóm. Các cô gái đã chạy trốn vào phòng thay quần áo của nam, trong đó họ đã thấy Kobe Bryant chuẩn bị cho trận đấu của mình. Trong cảnh tiếp đó, họ trở thành cổ động viên của một sân bóng với sự góp mặt của Wyclef Jean vào vai đội trưởng đội trống. Ban nhạc trong video thật ra chính là đội trống của UCLA. Wyclef Jean cũng đã mặc đồng phục của đội trưởng đội trống UCLA. Cảnh cuối cùng trong video là cảnh các chàng trai trở lại và cùng nhau lái xe thân mật với nhóm.
Trong phiên bản phối lại của video, nội dung của video vẫn như cũ. Chỉ thay đổi một vài chi tiết là sau khi có sự xuất hiện của Jean, nhóm đã nhảy theo nhịp trống cùng những thành viên và những thành viên đội trống. Cảnh tiếp đó là cảnh nhóm nhạc nhảy điệu salsa cùng những vũ công nam khi Jean đang hát rap. Và phần cuối vẫn tương tự như video gốc.
Video gốc còn nằm trong đĩa DVD The Platinum's on the Wall, còn video "Refugee Camp Remix" sau đó không được phát hành trong bất cứ đĩa DVD nào, nhưng vẫn có thể tìm trên YouTube với chất lượng thấp.
Đĩa CD Maxi tại Mỹ
Đĩa Vinyl, 12-inch, Quảng bá tại Mỹ
Mặt A
Mặt B
Đĩa quảng bá tại Anh
Đĩa CD Maxi Phần 1 CA 668188 2[1]
Đĩa CD Maxi Phần 2 CA 668188 5
Đĩa CD Maxi châu Âu' COL 667779 5
Đĩa đơn 2 ca khúc châu Âu
Đĩa quảng bá tại Đức SAMPCS 1510
Đĩa CD Maxi tại Úc[2]
"Bug a Boo" xuất hiện tại vị trí #87 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 vào ngày 25 tháng 9 năm 1999 và sau đó nằm ở vị trí #33 trước ca khúc bị kéo xuống trong bảng xếp hạng. Sau thành công lớn của "Bills, Bills, Bills", "Bug a Boo" khá thất bại về mặt doanh thu và những yêu phát thanh trên đài. Nhưng ca khúc khá thành công trên bảng xếp hạng R&B với vị trí #15, nhưng lại trở thành một trong hai ca khúc không leo lên top 10 của nhóm trên bảng xếp hạng này. Đây đồng thời cũng chính là đĩa đơn thất bại trên các bảng xếp hạng tại Hoa Kỳ và những vẫn dành 20 tuần trên bảng Hot 100. Từ khi có sự xuất hiện của bản "Refugee Camp Remix", ca khúc lại tiếp tục thành công như lời mở đầu của ca khúc "trong lần thứ hai này chúng tôi sẽ thành công". Đĩa đơn đơn đứng vị trí #26 trên bảng xếp hạng Australian ARIA Singles Chart. Đây chính là đĩa đơn kém thành công nhất chỉ sau "Girl" vào năm 2004.
Tại Hà Lan, ca khúc giành vị trí thứ 6 trên bảng xếp hạng Mega Single Top 100, ca khúc nằm trong bảng xếp hạng 15 tuần và giành rất nhiều lần phát sóng trên các đài phát thanh.
Bảng xếp hạng (1999) | Vị trí |
---|---|
Úc (ARIA)[3] | 26 |
Bỉ (Ultratop 50 Flanders)[4] | 24 |
Bỉ (Ultratop 50 Wallonia)[5] | 32 |
Hà Lan (Single Top 100)[6] | 6 |
Pháp (SNEP)[7] | 57 |
Đức (Official German Charts)[8] | 20 |
Thụy Điển (Sverigetopplistan)[9] | 29 |
Thụy Sĩ (Schweizer Hitparade)[10] | 60 |
Anh Quốc (Official Charts Company)[11] | 9 |
Hoa Kỳ Billboard Hot 100[12] | 33 |