Bulat Shalvovich Okudzhava

Bulat Okudzhava
Sinh9 tháng 5 năm 1924
Nga Moskva, Nga
Mất12 tháng 5 năm 1997
Pháp Paris, Pháp
Nghề nghiệpNhà thơ, Nhạc sĩ, Nhà văn
Thể loạiThơ, Văn, Nhạc

Bulat Shalvovich Okudzhava (tiếng Nga: Булат Шалвович Окуджава, 9 tháng 5 năm 192412 tháng 5 năm 1997) là nhạc sĩ, nhà văn, nhà thơ NgaXô Viết.

Tỉểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Bulat Okudzhava sinh ở Moskva. Bố là Shalva Stepanovich Okudzhava, một cán bộ đảng người Gruzia, mẹ là Nalbandyan Stepanovna Ashkhen, người Armenia. Gia đình sống ở phố Arbat, đường phố cổ nổi tiếng ở Moskva. Sau khi sinh Bulat bố chuyển công tác xuống vùng Kapkage, mẹ vẫn ở Moskva, làm việc trong cơ quan đảng. Bố được đề bạt chức Bí thư thành ủy Tbilisi nhưng do xích mích với một cán bộ cao cấp nên xin chuyển công tác về vùng Ural làm cán bộ đảng ở một nhà máy chế tạo động cơ. Thời kỳ này cả gia đình chuyển về vùng Ural. Năm 1937 bố mẹ của Bulat Okudzhava bị bắt, bố bị xử bắn, mẹ bị giam trong trại cải tạo. Năm 1940 Bulat Okudzhava đi về Tbilisi ở với người bà con. Tại đây, Bulat học xong phổ thông vào làm thợ tiện ở nhà máy. Năm 1942 tình nguyện nhập ngũ, trở thành lính của một đơn vị rada. Bulat Okudzhava không trực tiếp chiến đấu nhưng một lần bị thương ở Mozdok. Thời kỳ này ông bắt đầu sáng tác một số bài hát.

Nga, tem thư, Bulat Okudzhava, 1999 (Michel № 760, Scott № 6546)

Sau chiến tranh Bulat Okudzhava vào học Đại học Tbilisi. Năm 1950 tốt nghiệp, đi dạy học – đầu tiên dạy ở trường làng, sau lên thành phố Kaluga. Năm 1955 mẹ được trả tự do, Bulat Okudzhava vào Đảng cộng sản. Từ năm 1961 ông thôi nghề dạy học và chỉ tập trung vào sáng tác. Năm 1962 gia nhập Hội Nhà văn Liên Xô. Năm 1970 ông viết nhạc và bài hát cho bộ phim Ga Belarussky, trở thành một nhạc sĩ, nhà thơ nổi tiếng ở Liên Xô. Nhạc của Bulat Okudzhava được phổ biến bằng đĩa và băng, rất nổi tiếng trong cộng đồng Nga trong nước cũng như ở các nước trên thế giới. Ngoài sáng tác nhạc, ông còn viết truyện và làm thơ. Năm 1989 được bầu làm thành viên Hội Văn bút Nga. Từ năm 1992 là thành viên của ủy ban ân xá thuộc Tổng thống Nga. Từ năm 1994 là thành viên Ủy ban Giải thưởng Nhà nước Liên bang Nga. Ngoài ra, ông còn là thành viên hội đồng của nhiều tờ báo ở Moskva. Những năm 1990 ông thường xuyên sống ở Đức. Năm 1995 ông tổ chức buổi biểu diễn ở UNESCO, Paris. Ông mất ngày 12 tháng7 năm 1997 ở Paris.

Bulat Shalvovich Okudzhava được tặng Giải thưởng Nhà nước Liên Xô năm 1991. Năm 1994 ông được trao giải Booker cho tiểu thuyết Nhà hát phế bỏ. Tượng của ông được dựng ở ngôi nhà số 43, phố Arbat, nơi ông sống khi còn nhỏ.

Tác phẩm

[sửa | sửa mã nguồn]
Bulat Okudzhava năm 1944

Thơ và văn xuôi:

  • Лирика (Калуга, 1956),
  • Март великодушный (1967),
  • Арбат, мой Арбат (1976),
  • Стихотворения (1984), «Избранное» (1989),
  • Посвящается вам (1988),
  • Милости судьбы (1993),
  • Зал ожидания (Нижний Новгород, 1996), «Чаепитие на Арбате» (1996),
  • Булат Окуджава. 20 песенок для голоса и гитары.- Краков: Польское муз. изд-во, 1970.- 64 с.
  • Булат Окуджава. 65 песен (Музыкальная запись, редакция, составление В.Фрумкин). Ann Arbor, Michigan: Ardis, т.1 1980, т.2 1986.
  • Песни Булата Окуджавы. Мелодии и тексты. Составитель и автор вступительной статьи Л. Шилов, музыкальный материал записан А.Колмановским с участием автора).- М.: Музыка, 1989.- 224 с.
  • Бедный Авросимов» (1969, в последующих изданиях — «Глоток свободы»),
  • Похождения Шипова, или Старинный водевиль»,
  • Путешествие дилетантов» (1976—78),
  • Свидание с Бонапартом» (1983),
  • Упразднённый театр» (1992).

Kịch bản phim:

  • Застава Ильича («Мне двадцать лет»), Киностудия им. М.Горького, 1963
  • Ключ без права передачи, Ленфильм, 1977
  • Законный брак, Мосфильм, 1985
  • Храни меня, мой талисман, Киностудия им. А. П. Довженко, 1986
  • Я помню чудное мгновенье (Ленфильм);
  • Мои современники, Ленфильм, 1984;
  • Два часа с бардами («Барды»), Мосфильм, 1988;
  • И не забудь про меня, Российское телевидение, 1992.

Một vài bài thơ

[sửa | sửa mã nguồn]
Не бродяги, не пропойцы
 
Не бродяги, не пропойцы,
за столом семи морей
вы пропойте, вы пропойте
славу женщине моей!
 
Вы в глаза ее взгляните,
как в спасение свое,
вы сравните, вы сравните
с близким берегом ее.
 
Мы земных земней.
И вовсе
к черту сказки о богах!
Просто
мы на крыльях носим
то, что носят на руках.
Просто
нужно очень верить
этим синим маякам,
и тогда нежданный берег
из тумана выйдет к вам.
 
Тьмою здесь все занавешено
 
Тьмою здесь все занавешено
и тишина как на дне...
Ваше величество женщина,
да неужели — ко мне?
 
Тусклое здесь электричество,
с крыши сочится вода.
Женщина, ваше величество,
как вы решились сюда?
 
О, ваш приход — как пожарище.
Дымно, и трудно дышать...
Ну, заходите, пожалуйста.
Что ж на пороге стоять?
 
Кто вы такая? Откуда вы?
Ах, я смешной человек...
Просто вы дверь перепутали,
улицу, город и век.
 
По какой реке твой корабль плывет
 
По какой реке твой корабль плывет
до последних дней из последних сил?
Когда главный час мою жизнь прервет,
вы же спросите: для чего я жил?
 
Буду я стоять перед тем судом -
голова в огне, а душа в дыму...
Моя родина - мой последний дом,
все грехи твои на себя приму.
 
Средь стерни и роз, среди войн и слез
все твои грехи на себе я нес.
Может, жизнь моя и была смешна,
но кому-нибудь и она нужна.
Đừng lang thang, đừng quá chén
 
Đừng lang thang, đừng quá chén
Bên bàn của bảy biển
Mà hãy hát lên, hát lên
Khen người phụ nữ của mình!
 
Hãy nhìn vào mắt nàng
Như vào sự cứu rỗi của mình
Và hãy so sánh, hãy so sánh
Với bờ bến thật gần.
 
Ta trần tục hơn cả người trần
Quỷ tha ma bắt
Những chuyện về thánh thần!
Chỉ đơn giản
Ta mang trên đôi cánh
Những gì người ta mang trên tay mình.
Chỉ đơn giản
Cần thật tin
Những ngọn đèn biển màu xanh
Và khi đó một bến bờ không đợi
Từ trong sương mù sẽ đến với anh.
 
Bóng tối ở đây đang trùm xuống
 
Bóng tối ở đây đang trùm xuống
Và tĩnh lặng đến tận cùng...
Thưa quý bà cao thượng
Chẳng lẽ là – em đến với anh?
 
Điện ở đây mù mờ
Nước từ trần nhà rỏ xuống
Thưa quý bà cao thượng
Em nghĩ sao mà lại đến đây?
 
Như đám cháy – em đi đến đây
Khói mịt mù và khó thở
Mời em hãy bước vào đây
Sao lại đứng ngoài bục cửa?
 
Em từ đâu? Em là ai thế?
Tôi buồn cười lắm phải không...
Chỉ đơn giản là em nhầm cánh cửa
Với đường, thành phố, và một trăm năm.
 
Theo sông nào con tàu ngươi bơi đi
 
Theo sông nào con tàu ngươi bơi đi
Đến ngày cuối cùng, từ sức cuối tận?
Trong ngày cuối mà ta sống đến
Người ta hỏi rằng: sống để làm chi?
 
Còn ta sẽ đứng trước con tàu ấy
Đầu trong lửa và linh hồn trong khói
Tổ quốc ta – ngôi nhà cuối của ta
Lầm lỗi của người – ta xin nhận lấy.
 
Giữa rạ và hoa, chiến tranh và lệ
Ta mang theo mình lầm lỗi của ngươi
Có thể đời ta đã rất buồn cười
Nhưng cuộc đời ta cần cho ai đó.
Bản dịch của Nguyễn Viết Thắng.

Nhận xét

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Die besiegten Sieger, reitschuster, 17.5.2015

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Vegapunk và quan điểm về tôn giáo của Albert Einstein
Vegapunk và quan điểm về tôn giáo của Albert Einstein
Tương lai đa dạng của loài người chính là năng lực. Căn cứ theo điều đó, thứ "Trái với tự nhiên" mới bị "Biển cả", mẹ của tự nhiên ghét bỏ
Giới thiệu Kagune - Tokyo Ghoul
Giới thiệu Kagune - Tokyo Ghoul
Một trong những điều mà chúng ta không thể nhắc đến khi nói về Tokyo Ghoul, đó chính là Kagune
Polumnia Omnia - Lời oán than của kẻ ngu muội
Polumnia Omnia - Lời oán than của kẻ ngu muội
Đây là bản dịch lời của bài [Polumnia Omnia], cũng là bản nhạc nền chủ đạo cho giai đoạn 2 của Boss "Shouki no Kami, Kẻ Hoang Đàng".
Thông tin nhân vật Oshino Shinobu - Monogatari Series
Thông tin nhân vật Oshino Shinobu - Monogatari Series
Oshino Shinobu (忍野 忍, Oshino Shinobu) là một bé ma cà rồng bí ẩn